
“Khoảng trống” pháp lý và bất cập trong thực thi
Luật BVMT năm 2020 được ban hành và có hiệu lực với nhiều chính sách mang tính đột phá, hướng tới nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn bộc lộ không ít bất cập.
Theo Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực”, một số quy định của Luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Chẳng hạn, chưa quy định rõ thẩm quyền hướng dẫn một số nội dung như: Trách nhiệm thẩm định kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; lộ trình hạn chế nhập khẩu phế liệu nhựa làm nguyên liệu sản xuất; cơ chế phối hợp liên ngành trong giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt giữa các lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, giao thông...
Từ thực tiễn quản lý ngành, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài cho biết, giai đoạn 2022-2024, tổng ngân sách sự nghiệp môi trường Bộ được giao chỉ đạt 36,85 tỷ đồng (tương đương hơn 12 tỷ đồng/năm). Với mức kinh phí hạn hẹp này, Bộ không thể triển khai đầy đủ các nhiệm vụ được giao; nhiều nhiệm vụ bị kéo dài, thậm chí bị loại bỏ, gây lãng phí và giảm hiệu quả thực thi.
Trong khi đó, các lĩnh vực công nghiệp do Bộ quản lý như hóa chất, thép, nhiệt điện, khai khoáng... lại là những nguồn phát thải lớn, tiềm ẩn rủi ro ô nhiễm cao. “Luật BVMT và các văn bản hướng dẫn chưa quy định trách nhiệm kiểm tra việc BVMT của Bộ đối với hoạt động sản xuất công nghiệp” - ông Hoài nêu, và cho rằng đây là một hạn chế pháp lý quan trọng, làm suy giảm hiệu lực giám sát, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan trong công tác BVMT.
Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế phải gắn với BVMT, việc rà soát và đề xuất các chỉ tiêu môi trường phù hợp cho giai đoạn tới rất cần thiết. Chỉ bằng cách đặt nhiệm vụ BVMT cấp bách thành chỉ tiêu pháp lệnh mới nâng cao được trách nhiệm BVMT của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương. Ngoài ra, việc hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu môi trường không chỉ là cơ sở để cử tri và nhân dân theo dõi, giám sát mà còn là giải pháp căn cơ để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tuấn Anh - TP. Cần Thơ
Tại địa phương, việc thi hành Luật cũng chưa đến nơi đến chốn. Nhiều tỉnh, thành phố chưa ban hành hoặc ban hành chậm các văn bản thuộc thẩm quyền. Kết quả kiểm toán năm 2022 của KTNN cho thấy, TP. Hà Nội và tỉnh Bắc Ninh chưa ban hành hoặc chậm ban hành các quy định liên quan đến quản lý môi trường tại cụm công nghiệp, làng nghề; nhiều địa phương cũng chưa có văn bản quản lý môi trường tại các khu kinh tế, khu công nghiệp giai đoạn 2017-2021.
Đáng chú ý, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực môi trường, vốn là công cụ pháp lý then chốt, vẫn vừa thiếu, vừa khó áp dụng. Kết quả kiểm toán năm 2023 chỉ rõ, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chưa ban hành quy định định mức kinh tế - kỹ thuật về thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt; chưa hướng dẫn cụ thể việc phân loại chất thải rắn tại nguồn theo quy định.
Không chỉ thiếu và chưa đồng bộ, theo Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định, một số văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống tiêu chuẩn quốc gia (QCVN) viện dẫn quá nhiều tiêu chuẩn quốc tế, gây khó khăn trong áp dụng. “Thông tư 10/2021/TT-BTNMT quy định kỹ thuật quan trắc môi trường và quản lý dữ liệu quan trắc viện dẫn gần 700 tiêu chuẩn, trong đó tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) chỉ chiếm khoảng 20%” - ông Định dẫn chứng.
Tăng cường kiểm tra, giám sát - yêu cầu cấp bách
Bên cạnh những bất cập về chính sách, kết quả giám sát của Quốc hội và KTNN còn cho thấy công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm môi trường vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi chế tài xử lý còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Đây là nguyên nhân khiến vi phạm môi trường ngày càng tinh vi và phức tạp.
Theo KTNN, nhiều cơ sở vi phạm quy định về BVMT nhưng chưa được giám sát, kiểm tra kịp thời để phát hiện, khắc phục. Tại thời điểm kiểm toán năm 2022, Bắc Ninh và Hà Nội có tình trạng nhiều cụm công nghiệp, làng nghề đi vào hoạt động nhưng không có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hoặc không thực hiện đầy đủ nội dung BVMT theo ĐTM được duyệt; xả nước thải khi chưa có giấy phép; hạ tầng BVMT không đảm bảo. Ở Cần Thơ, một số cơ sở xả thải vượt tải nhưng chưa có biện pháp xử lý - điển hình là Công ty TNHH Nước giải khát Suntory PepsiCo Việt Nam vẫn xả thải trực tiếp ra cống thoát nước mà không qua đồng hồ đo lưu lượng đầu ra; nhiều cơ sở chưa đấu nối hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Hạn chế trong thanh - kiểm tra còn khiến tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến môi trường diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, “phần lớn việc giải quyết của các địa phương mới chỉ dừng ở mức yêu cầu chủ đầu tư hạn chế tác động xấu, chứ chưa có giải pháp căn cơ, dứt điểm” - Đoàn giám sát của Quốc hội nhận định.
Trước thực tế này, chuyên đề giám sát tối cao của Quốc hội đã phác họa “bức tranh toàn cảnh” về thực trạng môi trường, đồng thời kiến nghị nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách và tăng hiệu lực thực thi. Trong đó, Quốc hội yêu cầu các Ủy ban, đoàn đại biểu Quốc hội, cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT, phát huy vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng dân cư; đồng thời phát hiện, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong BVMT.
Nhấn mạnh yêu cầu “bịt lỗ hổng” giám sát, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan - Trưởng Đoàn giám sát - đề nghị, các Bộ, ngành và địa phương khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ, hướng dẫn kịp thời cho doanh nghiệp và cơ sở thực hiện, tránh tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất khiến nhiều nội dung luật định không thể triển khai trên thực tế.
Xác định tầm quan trọng của công tác BVMT, KTNN luôn chú trọng thực hiện các cuộc kiểm toán chuyên đề môi trường. Năm 2025, KTNN đã, đang triển khai các cuộc kiểm toán về quản lý môi trường tại khu công nghiệp, cụm công nghiệp; hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị; quản lý phế liệu nhập khẩu… dưới hình thức kiểm toán hoạt động và kiểm toán chuyên đề, đồng thời lồng ghép hàng chục nội dung kiểm toán môi trường trong các cuộc kiểm toán khác. Qua đó, KTNN đánh giá tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của quản lý, sử dụng tài chính công; chỉ ra các lỗ hổng pháp lý và kiến nghị giải pháp phù hợp, kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả công tác BVMT.
Là lĩnh vực mang tính liên ngành, công tác BVMT chỉ có thể đạt hiệu quả khi có sự vào cuộc của các ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân. Do đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cộng đồng, kết hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp, hành động quyết liệt đi đôi với giám sát, phòng ngừa, cảnh báo sẽ là “chìa khóa” để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường trong giai đoạn tới.
Báo Kiểm toán sẽ tiếp tục thông tin./.