
Theo báo cáo của UBND Thành phố Hà Nội, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo trên đại bàn đạt trên 50%; riêng các ngành công nghệ thông tin, thương mại - dịch vụ có tỷ lệ trên 70%.
Chỉ số chuyển đổi số DTI cấp tỉnh tăng mạnh, từ hạng 43 (năm 2020) lên hạng 6 (năm 2023), trong đó chính quyền số, kinh tế số và xã hội số đều có bước tiến vượt bậc. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số bước đầu hình thành với 2 khu công nghệ tập trung, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc.
Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ của Thủ đô hiện nay còn tồn tại một số điểm nghẽn: Tốc độ bứt phá chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; chưa khai thác hết tiềm lực khoa học, công nghệ từ Trung ương và các trường đại học trên địa bàn; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ lõi.
Cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu, định mức chi và tỷ lệ đầu tư, tỷ lệ giải ngân cho khoa học, công nghệ còn thấp; kết nối nghiên cứu khoa học với thị trường và doanh nghiệp còn yếu; chưa có giải pháp để khơi thông nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng khoa học và công nghệ chưa đồng bộ, hệ thống dữ liệu thiếu đầy đủ, phân tán, chưa thực sự trở thành tài nguyên, nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Hệ thống ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo còn thiếu kết nối, thiếu cơ chế vận hành chuyên nghiệp; hợp tác "ba nhà" (Nhà nước - nhà khoa học - doanh nghiệp) còn chưa chặt chẽ, thiếu các dự án mang tính liên ngành, liên lĩnh vực quy mô lớn.

Tại Kỳ họp thứ hai mươi sáu, HĐND Thành phố Hà Nội đã thông qua Nghị quyết về một số chính sách phát triển khoa học, công nghệ của Thành phố Hà Nội.
Ban Kinh tế - Ngân sách, HĐND Thành phố đánh giá, Nghị quyết thể hiện sự đột phá, mạnh dạn, phù hợp với định hướng của Trung ương, hướng tới việc giải quyết những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn, tạo cơ chế quản lý linh hoạt, giảm thiểu các thủ tục hành chính, trao quyền chủ động cho các nhà khoa học và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, thu hút nhân tài từ đó nâng cao hiệu quả và chất lượng nghiên cứu và thúc đẩy nhanh quá trình thương mại hóa, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Theo đó, Nghị quyết quy định chi tiết một số chính sách nhằm phát triển khoa học và công nghệ của thành phố Hà Nội, bao gồm: Chính sách đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm của Thủ đô theo quy định tại Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 23 Luật Thủ đô số 39/2024/QH15; chính sách đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ theo quy định tại điểm b, c Khoản 3 Điều 23 và điểm e Khoản 1 Điều 35 Luật Thủ đô số 39/2024/QH15.
Đối tượng áp dụng là cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Thành phố; doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân chủ trì hoặc tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Thành phố; cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc thành phố Hà Nội, doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ, tổ chức, cá nhân khác có liên quan tham gia hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Thành phố.
Các chính sách nổi bật của Nghị quyết gồm: Ưu đãi thuế đối với cá nhân tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm của Thủ đô; ưu đãi, hỗ trợ đối với doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm;
Hỗ trợ mua sắm, vận hành máy móc, thiết bị thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm; lựa chọn nhà thầu cung ứng dịch vụ, hàng hóa thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm; đặt hàng, công nhận nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm.../.