Định vị vai trò chính sách công nghiệp để hướng tới tăng trưởng hai con số

(BKTO) - Trong bối cảnh Việt Nam đang cần một mô hình tăng trưởng mới, chính sách công nghiệp hiệu quả sẽ góp phần định hình các động lực tăng trưởng mới và tạo nền tảng chiến lược cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, qua đó hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số.

cong-nghiep-1.jpg
Ngành công nghiệp đóng góp quan trọng trong GDP. Ảnh minh họa: S.T

Động lực then chốt thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chia sẻ tại Hội thảo công bố Báo cáo Kinh tế thường niên Việt Nam 2025, với chủ đề “Định vị vai trò của chính sách công nghiệp thúc đẩy khu vực tư nhân hướng tới tăng trưởng hai con số”, PGS,TS. Nguyễn Trúc Lê - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch với tăng trưởng GDP đạt 7,09% năm 2024 và gần 7% trong quý I/2025, nhưng vẫn còn có những điểm nghẽn mang tính cấu trúc, đặc biệt là liên quan đến chính sách công nghiệp và khu vực kinh tế tư nhân.

Trong đó, đối với khu vực kinh tế tư nhân, mặc dù khu vực này hiện đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách, 82% tổng số lao động, nhưng năng suất lao động, trình độ công nghệ, mức độ liên kết chuỗi còn thấp. Mô hình tăng trưởng hiện tại vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) và xuất khẩu thô. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) ở mức thấp và nhiều năm thậm chí âm.

Về chính sách công nghiệp, đầu tư công nghiệp còn thiếu trọng tâm ngành - vùng; các chính sách hỗ trợ chưa tạo được cú hích cho doanh nghiệp nội địa bước vào chuỗi giá trị toàn cầu; hạn chế trong nghiên cứu và phát triển (R&D), thiếu hạ tầng số, thiếu kết nối giữa khu vực công và tư…

Trong khi đó, theo ông Lê, kinh nghiệm của các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… cho thấy, không một nền kinh tế nào thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình mà không có chính sách công nghiệp chủ động, chọn lọc và có định hướng dài hạn.

Cụ thể, Nhật Bản và Hàn Quốc đầu tư bài bản vào các ngành công nghiệp nền tảng, đi cùng chiến lược xuất khẩu và nâng cao chất lượng lao động. Trung Quốc kết hợp cải cách thể chế với xây dựng cụm công nghiệp trọng điểm, từ đó nâng cao năng lực nội sinh…

“Những quốc gia này đều có một điểm chung là chính sách công nghiệp - từng bị coi là biện pháp can thiệp làm méo mó thị trường - nay đã và đang được nhiều quốc gia phát triển cũng như đang phát triển tái sử dụng như một công cụ chủ động nhằm xây dựng năng lực sản xuất, công nghệ và bảo đảm phát triển bền vững và an ninh kinh tế” - ông Lê nhấn mạnh.

Từ thực tế đó, ông Lê cho rằng, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục đối mặt với nhiều bất ổn, từ xung đột địa chính trị đến xu hướng bảo hộ thương mại, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn và các rủi ro tài chính leo thang, để nền kinh tế Việt Nam hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số, ngoài các cách tiếp cận truyền thống như ưu đãi đầu tư, cần bổ sung thêm một cách tiếp cận mới, một góc nhìn mới, đó là định vị lại vai trò của chính sách công nghiệp nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

“Chính sách công nghiệp - không chỉ như một công cụ chính sách ngành, mà phải là động lực chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, phát triển nhanh và bền vững” - ông Lê nêu quan điểm.

Chia sẻ sâu về chính sách công nghiệp và sự phát triển của ngành này tại Việt Nam, bà Nguyễn Thị Xuân Thúy - Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội - cho biết, trong thời gian qua Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách công nghiệp khác nhau nhằm phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp hỗ trợ…, nhờ đó góp phần duy trì đà công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tạo điều kiện cho nhiều ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển.

Với sự phát triển của ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo, ngành này đã và đang đóng góp phần lớn trong GDP, giữ vị trí là động lực then chốt thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất lao động, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ sang nhiều lĩnh vực khác như logistics, tài chính, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Cũng theo bà Thúy, Việt Nam trong thập kỷ gần đây đã đạt được nhiều thành tựu tích cực trong việc nâng cao vị trí trên bảng xếp hạng cạnh tranh công nghiệp (CIP), đã vượt qua Philippines và Indonesia, vươn lên vị trí thứ tư trong khu vực ASEAN, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Thành tựu đó phần lớn nhờ vào động lực từ xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử, dệt may, da giày.

Tuy nhiên, thành tích trên vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Thể hiện là, năng suất lao động trong nước tăng chậm hơn chi phí lao động, phụ thuộc phần lớn vào nguồn lực bên ngoài như vốn FDI, nhập khẩu nguyên phụ liệu, công nghệ. Nguồn năng lượng của đất nước vẫn phụ thuộc phần lớn vào năng lượng hoá thạch… Những yếu tố đó tạo ra thách thức dài hạn đối với việc duy trì đà tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp để đạt được mục tiêu vươn lên nhóm 3 nước có năng lực cạnh tranh công nghiệp hàng đầu trong khu vực.

20250625_110221.jpg
Các chuyên gia trao đổi tại Hội thảo, do Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam phối hợp tổ chức. Ảnh: D.T

Cần phát triển công nghiệp có trọng tâm, trọng điểm

Từ thực tế trên, ý kiến của các chuyên gia cho rằng, để phù hợp với bối cảnh mới, định hướng chính sách công nghiệp trong thời gian tới cần được xác lập trên cơ sở tận dụng thế mạnh hiện có, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn đóng vai trò hạt nhân. Chính sách cũng cần hướng vào việc tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ, bằng việc đảm bảo nguồn lực về đất đai, vốn, lao động và công nghệ.

Ngoài ra, cần có cách tiếp cận chính sách dựa trên lợi thế so sánh, phát huy hiệu ứng lan tỏa của chuỗi giá trị trong nước, thúc đẩy sự hình thành các cụm liên kết ngành, kết nối giữa các địa phương, vùng miền.

Đặc biệt, để đạt hiệu quả cao, quá trình thực thi chính sách cần được đi kèm với nguồn lực phù hợp cùng hệ thống quy định pháp lý rõ ràng, hiệu lực. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống giám sát, đánh giá chính sách công nghiệp trên cơ sở nguồn dữ liệu thống kê tin cậy, tạo động lực mới thúc đẩy công nghiệp Việt Nam phát triển xanh, bền vững, bắt kịp xu thế công nghiệp hóa trong khu vực và trên thế giới.

Trong trung, dài hạn, theo các chuyên gia, Việt Nam cần xây dựng chiến lược và thực hiện các chính sách đầu tư phát triển công nghiệp và công nghệ trọng điểm có mục tiêu, có trọng tâm; đồng thời đảm bảo kết hợp các nguồn lực tư nhân trong nước và các nguồn vốn FDI trong quá trình chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp. Đặc biệt, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và các ngành công nghiệp phải được triển khai đồng bộ với chiến lược chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, hướng đến mô hình tăng trưởng xanh, tuần hoàn và bao trùm.

Từ góc nhìn quốc tế, bà Dorsati Madani - Chuyên gia Kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đưa kiến nghị, để ngành công nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cần tập trung phát triển nguồn nhân lực. Bởi lẽ, nếu lao động trong nước có đủ trình độ, làm chủ được công nghệ thì mới tạo ra được sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy nhanh quá trình chuyển đối số và chuyển đổi xanh, qua đó giúp doanh nghiệp Việt tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu./.

Trong chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh công nghiệp; tỷ trọng công nghiệp đạt trên 40% GDP.

Cùng chuyên mục
Định vị vai trò chính sách công nghiệp để hướng tới tăng trưởng hai con số