Gỡ vướng chính sách tài chính để ngành khoáng sản phát triển bền vững

(BKTO) - Ngành công nghiệp khoáng sản giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế với vai trò cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành sản xuất, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước và tạo ra việc làm cho hàng triệu lao động. Do đó, việc tháo gỡ những vướng mắc, bất cập, hoàn thiện chính sách tài chính sẽ đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy ngành công nghiệp khoáng sản phát triển bền vững.

20251015_085745.jpg
Quang cảnh Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản”. Ảnh: D.T

Doanh nghiệp lo “thuế chồng thuế”

Chia sẻ tại Hội thảo “Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản”, do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Hội Khoa học và Công nghệ mỏ Việt Nam tổ chức ngày 15/10, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký VCCI cho biết, ngành công nghiệp khai khoáng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, không chỉ cung cấp nguyên liệu đầu vào thiết yếu cho nhiều ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, năng lượng, vật liệu xây dựng, mà còn là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt, Việt Nam sở hữu nhiều loại khoáng sản có giá trị chiến lược, trong đó có đất hiếm, vonfram, bôxit - những nguyên tố đóng vai trò then chốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghệ cao, năng lượng tái tạo, sản xuất pin, chip bán dẫn và quốc phòng.

Tuy nhiên, theo ông Tuấn, tiềm năng to lớn đó chỉ có thể phát huy hiệu quả nếu xây dựng được một hệ sinh thái chính sách phù hợp, trong đó, chính sách tài chính đóng vai trò then chốt.

Ông Tuấn cũng cho biết, trên thực tế, các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai khoáng hiện đang phải thực hiện đồng thời hai nghĩa vụ tài chính lớn, bao gồm: thuế tài nguyên theo Luật Thuế tài nguyên 2009 và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo Luật Khoáng sản 2010, tiếp tục được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024. Cả hai khoản thu này đều nhằm bảo đảm Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, việc cùng lúc áp dụng hai cơ chế tài chính đánh vào cùng một đối tượng đã và đang đặt ra những vấn đề thực tiễn, pháp lý và kinh tế đáng quan tâm.

Theo phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay đang cao vượt trội so với thông lệ quốc tế, có thể chiếm tới 30 - 40% doanh thu. Trong khi đó, các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada, Indonesia thường chỉ áp dụng một cơ chế thuế tài nguyên linh hoạt, kết hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp, với tổng mức thu thấp hơn đáng kể.

“Chính sự chồng lấn về bản chất giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đang làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời tạo ra những rủi ro pháp lý và làm méo mó các động lực đầu tư vào khai thác hiệu quả và chế biến sâu - vốn là định hướng xuyên suốt trong Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển ngành khoáng sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045” - ông Tuấn nhấn mạnh.

Nói thêm về hai nghĩa vụ tài chính này của doanh nghiệp, TS. Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng Ban Khoa học công nghệ, Hội Khoa học và Công nghệ mỏ Việt Nam cho biết, cả hai khoản thu đều đánh vào cùng một đối tượng - quyền khai thác tài nguyên khoáng sản - nhưng có nguồn gốc pháp lý ban hành khác nhau, trong đó thuế tài nguyên thuộc hệ thống thuế quốc gia do Bộ Tài chính quy định, còn tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thuộc pháp luật chuyên ngành tài nguyên - khoáng sản do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quy định.

Bởi vậy, theo ông Chỉnh, nếu thiết kế không hài hòa sẽ gây ra tình trạng “thuế chồng thuế”, làm tăng gánh nặng cho doanh nghiệp, giảm hiệu quả khai thác và không phù hợp so với thông lệ quốc tế.

Cụ thể, thuế tài nguyên hiện hành ở Việt Nam không giống như ở các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển. Ở các nước, thường chỉ có một khoản thu dưới dạng thuế tài nguyên tính linh hoạt theo sản lượng, giá trị, lợi nhuận hoặc giá thị trường.

Trong khi đó, Việt Nam vừa thu thuế tài nguyên (3 - 25%), vừa thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (1 - 5%), dẫn tới tổng nghĩa vụ tài chính cao so với các nước. Gộp 2 khoản thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác đối với than là 12 - 14%; đối với quặng tinh boxit 14%; đối với đất hiếm là 20% doanh thu; đối với quặng đa kim - vonfram là khoảng 22% doanh thu.

img-2926.jpg
Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký VCCI phát biểu. Ảnh: D.T

Chia sẻ thêm bất cập, từ góc độ doanh nghiệp trong ngành, ông Phan Chiến Thắng - Phó Tổng Giám đốc Masan High-tech Materials cho biết, một số chính sách tài chính còn thiếu nhất quán với định hướng chế biến sâu trong ngành công nghiệp khoáng sản.

Cụ thể, đối với thuế xuất khẩu, mặc dù nguyên tắc được đặt ra là áp dụng thuế suất cao cho sản phẩm nguyên liệu thô và giảm dần đối với sản phẩm tinh, thành phẩm. Tuy nhiên, sản phẩm chế biến sâu vẫn phải chịu chung mức thuế xuất khẩu cao như khoáng sản thô. Đơn cử, sản phẩm Fluorit cấp axit chịu thuế xuất khẩu 10% và Bismuth xi măng chịu thuế xuất khẩu 5% dù được bộ chuyên ngành cho phép xuất khẩu và xác nhận là tài nguyên, khoáng sản đã được chế biến thành sản phẩm khác. Điều này đem đến hệ quả là giảm sức cạnh tranh cho sản phẩm khoáng sản Việt trên thị trường quốc tế.

Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, theo Luật Địa chất và Khoáng sản 2024, Chính phủ quy định danh mục khoáng sản chiến lược nhằm đưa ra chính sách phù hợp để thu hút đầu tư, hợp tác quốc tế vào khai thác và chế biến sâu với công nghệ hiện đại.

Tuy nhiên, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với các doanh nghiệp khai thác tài nguyên quý hiếm (trong đó có đất hiếm, vonfram là những loại khoáng sản chiến lược) ở mức cao là 50%, trong khi thuế suất tiêu chuẩn 20%.

“Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp chưa phù hợp với định hướng phát triển khoáng sản chiến lược. Do đó, cần áp dụng thuế suất tiêu chuẩn 20% cho các danh nghiệp khai thác khoáng sản chiến lược” - ông Thắng đề xuất.

Theo thống kê của cơ quan thuế, từ khi quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được triển khai (năm 2014) đến hết tháng 7/2025, tổng số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thu nộp vào ngân sách nhà nước là 53.511 tỷ đồng.

Hoàn thiện chính sách tài chính để “nuôi dưỡng” nguồn thu

Trước những vướng mắc, bất cập trong chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản, đưa kiến nghị để gỡ vướng, ông Đậu Anh Tuấn đề xuất cơ quan quản lý nhà nước cần xác định chính xác bản chất pháp lý của các nghĩa vụ tài chính đối với ngành khoáng sản. Trên cơ sở đó, sửa đổi quy định để thống nhất các nghĩa vụ có tính chất giống nhất, đảm bảo nguyên tắc không trùng lặp trên cùng một đối tượng.

Bên cạnh đó, cần ban hành “mức trần tổng nghĩa vụ tài chính”, theo hướng quy định mức trần tối đa trên mỗi đơn vị tài nguyên, chẳng hạn không quá 10% giá trị khai thác, để vừa bảo đảm mức nộp ngân sách nhà nước, đồng thời doanh nghiệp còn đủ lợi ích để đầu tư.

1(1).jpg
Ông Nguyễn Văn Phụng - Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) phát biểu ý kiến. Ảnh: D.T

Đưa thêm kiến nghị, TS. Nguyễn Tiến Chỉnh cho rằng, cần áp dụng cơ chế ưu đãi có điều kiện, chẳng hạn như miễn, giảm thuế tài nguyên (hoặc tiền cấp quyền) với các mỏ khó khăn, quặng nghèo; đồng thời giảm thuế tài nguyên cho các doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu hoặc thu hồi khoáng sản đi kèm.

Để hài hòa với thông lệ quốc tế, cơ quan quản lý nhà nước cũng nên nghiên cứu áp dụng mô hình thuế tài nguyên trên thế giới, phù hợp định hướng quản lý nhà nước của Việt Nam; cũng như tránh áp dụng cơ chế tài chính gây bất lợi cạnh tranh, rào cản tham gia chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu.

Đặc biệt, cần tăng cường minh bạch hóa trong quản lý, thu và sử dụng thuế tài nguyên; công khai cách tính, tỷ lệ thuế phí rõ ràng phù hợp…

“Chính sách thuế, phí phải hợp lý đảm bảo nguồn thu cho ngân sách; đồng thời cũng phải đảm bảo, khuyến khích các nhà đầu tư khai thác tài nguyên khoáng sản có hiệu quả nhằm “nuôi dưỡng” nguồn thu và đảm bảo lợi ích của cư dân vùng có khoáng sản, nhằm phát triển bền vững ngành công nghiệp khai khoáng” - ông Chỉnh nhấn mạnh.

Từ góc nhìn chuyên gia trong lĩnh vực thuế, ông Nguyễn Văn Phụng - Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) đưa thêm đề xuất, cần áp dụng các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bền vững, đổi mới công nghệ khai thác, chế biến để tăng hiệu suất thu hồi, tận thu khoáng sản, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó, cần sửa đổi một số quy định trong Luật Thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản, bảo đảm đơn giản, minh bạch, thống nhất, mức động viên hợp lý.

Đồng thời, rà soát lại biểu thuế xuất khẩu, các phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 181/2025/NĐ-CP về thuế giá trị gia tăng theo hướng nới lỏng điều tiết đối với những khoáng sản hiện tại trong nước chưa sử dụng buộc phải xuất khẩu, chi tiết hơn với loại chế biến sâu để áp dụng mức thuế thấp hơn…/.

Cùng chuyên mục
Gỡ vướng chính sách tài chính để ngành khoáng sản phát triển bền vững