ASEAN đang hướng tới một chính sách thuế bền vững. Ảnh: TTXVN
Đó là thông điệp được đưa ra trong Báo cáo: “Hướng tới chính sách thuế bền vững trong khối ASEAN - trường hợp ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp” do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) và một số tổ chức vừa phối hợp công bố.
Mức thuế thu nhậpdoanh nghiệp thực nộp sauưu đãi thuế ở ASEAN thấp nhấtthế giới
Ông Nguyễn Đức Thành - Cố vấn trưởng VEPR - cho biết, mặc dù các quốc gia thành viên ASEAN đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong nhiều thập kỷ nhưng hầu hết thu ngân sách tương đối thấp. Trong khu vực ASEAN, tỷ lệ thu ngân sách trên GDP thấp hơn đáng kể so với các nước OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế). Tỷ lệ trung bình ở ASEAN là 19,1% GDP năm 2018, chưa bằng một nửa so với mức trung bình ở các nước OECD, thấp hơn khu vực Mỹ Latinh và Caribe. Điều này dẫn đến khả năng đáp ứng hạn chế của ngân sách cho các dịch vụ công thiết yếu như: y tế, giáo dục, an sinh xã hội (các nước OECD chi trung bình cho các dịch vụ này tới 63% tổng chi, còn tỷ lệ này ở ASEAN chỉ là 33,6%) và tiếp tục gây thâm hụt ngân sách. Mức thâm hụt ngân sách tạo ra nhiều hệ lụy lớn cho khả năng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ công, cơ sở hạ tầng và quản trị tốt.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách là do các nước ASEAN phụ thuộc lớn vào nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) nhưng lại dần mất các khoản thu ngân sách khổng lồ do ưu đãi thuế lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các tổ chức quốc tế đã nhiều lần cảnh báo các nước thành viên ASEAN ngừng áp dụng các ưu đãi thuế không cần thiết bởi điều này làm giảm thu ngân sách.
Đáng chú ý, Nhóm nghiên cứu còn cho biết, các nước thành viên ASEAN đang cạnh tranh trong một cuộc đua xuống đáy bằng cách hạ thấp mức thuế TNDN và liên tục đưa ra ưu đãi thuế rất lớn đối với nhà đầu tư. 10 năm qua, thuế suất trung bình thuế TNDN của khu vực đã giảm từ mức trung bình 25,1% (năm 2010) xuống còn 21,7% (năm 2020). Với việc một số nước thành viên áp dụng thời gian ân hạn thuế lên tới 20 năm và các ưu đãi lớn khác dựa trên lợi nhuận, mức thuế suất trung bình thuế TNDN thực nộp giảm 9,4 điểm phần trăm. Điều này khiến ASEAN trở thành một trong những khu vực có mức thuế TNDN thực nộp sau ưu đãi thuế thấp nhất trên thế giới.
Cạnh tranh thuế và ưu đãi thuế trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi dịch chuyển lợi nhuận. Ước tính các quốc gia như: Thái Lan, Indonesia và Malaysia mất ít nhất từ 6 - 9 điểm phần trăm doanh thu thuế TNDN do hành vi chuyển lợi nhuận của các công ty đa quốc gia. Cuộc đua xuống đáy khiến các nước thành viên tham gia đều thua cuộc, bởi lẽ, không có bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy ưu đãi thuế làm tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại ASEAN, thậm chí còn ngược lại. Hầu hết các ưu đãi thuế TNDN ở ASEAN không nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư dài hạn mà chỉ để khỏa lấp những yếu kém trong năng lực quản trị, cơ sở hạ tầng và đáp ứng mong muốn ngắn hạn của các nhà đầu tư bằng cách cắt giảm thuế TNDN xuống mức tối thiểu.
Chấm dứt cuộc đua xuống đáy về ưu đãi thuế
Nhóm nghiên cứu đã đưa ra 3 nhóm khuyến nghị để giải quyết thực trạng trên. Bà Babeth Ngọc Hân Lefur - Giám đốc Quốc gia Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, đại diện Nhóm - khuyến nghị: Trước hết, ASEAN cần lập danh sách đen và danh sách trắng các ưu đãi thuế nhằm làm rõ loại ưu đãi nào có lợi và loại nào không có lợi, từ đó có kế hoạch và thời hạn cụ thể loại bỏ những ưu đãi có hại. Danh sách đen nên bao gồm các ưu đãi thuế dựa trên lợi nhuận như ưu đãi thuế tạo ra mức thuế suất thấp cho lợi nhuận chịu thuế (ân hạn thuế, miễn thuế, chuyển lỗ và thuế suất ưu đãi). Danh sách trắng nên bao gồm các ưu đãi thuế dựa trên đầu tư, thúc đẩy những đầu tư hữu ích cho cộng đồng để áp dụng trong khu vực, cần có cơ chế giám sát tính hiệu quả của các ưu đãi này để tránh hành vi lạm dụng các khoản khấu trừ thuế. Cơ chế này cần minh bạch và có sự tham gia thực chất của đại diện các chính phủ, chuyên gia quốc tế, tổ chức xã hội và giới học thuật.
Thứ hai, ASEAN cần thiết lập mức thuế suất tối thiểu trong khu vực nhằm chấm dứt cuộc đua xuống đáy về ưu đãi thuế. Trong khi các nước trên thế giới đang xây dựng quy định về mức thuế suất tối thiểu toàn cầu, ASEAN nên thống nhất một cách tiếp cận chung trong khu vực như thống nhất mức thuế TNDN thực nộp của từng nước không được thấp hơn mức thuế suất thuế TNDN thực nộp tối thiểu của khu vực. Mức thuế suất thực nộp tối thiểu này cần được ASEAN thảo luận một cách kỹ lưỡng và nên từ 12,5% đến 20%.
Thứ ba, ASEAN cần xây dựng quy định về quản trị tốt các ưu đãi thuế. Đặc biệt, cần đảm bảo rằng không có ưu đãi thuế nào được áp dụng riêng lẻ cho DN nào đó một cách tùy tiện. Trong mọi trường hợp, luật phải quy định rõ thời gian áp dụng ưu đãi thuế.
Ông Tony Salvador - Nghiên cứu viên về pháp lý tại Third World Network, một thành viên Hội đồng điều phối của Liên minh Thuế và Công bằng tài chính châu Á (TAFJA) - cho rằng: Các quốc gia thành viên ASEAN nên công bố báo cáo chi qua thuế hằng năm cùng báo cáo ngân sách quốc gia, đồng thời đánh giá lợi ích và chi phí của các chính sách ưu đãi thuế như một điều kiện tiên quyết trước khi phê duyệt các ưu đãi đó. Khi được chấp thuận áp dụng, cơ quan nhà nước (tốt nhất là cơ quan thuế) phải thường xuyên giám sát tác động của các ưu đãi thuế này bằng việc đánh giá giữa kỳ để xem kết quả thực hiện có đáp ứng được kỳ vọng của chính sách hay không.
THÙY ANH