
Mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào vốn, lao động giá rẻ dần tới giới hạn
Ngày 16/12, tại Hà Nội, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và Chính phủ đồng chủ trì chỉ đạo tổ chức Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 (VEPF) với chủ đề “Kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số”.
Chia sẻ tại Phiên chuyên đề Tài chính - Ngân hàng, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung cho biết, nhìn lại giai đoạn 2021-2025, trong bối cảnh thế giới nhiều biến động, Việt Nam đã duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn. Các nguồn lực tài chính được huy động, sử dụng ngày càng hiệu quả, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển.
Cụ thể, tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước 5 năm đạt khoảng 18,3% GDP, trong khi vẫn giảm, gia hạn thuế, phí… khoảng 1,1 triệu tỷ đồng để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, phục hồi tăng trưởng. Tăng thu, tiết kiệm chi khoảng 1,5 triệu tỷ đồng để bổ sung nguồn cho đầu tư phát triển, quốc phòng, an ninh, khoa học công nghệ, cải cách tiền lương, an sinh xã hội…
Cùng với đó, tỷ lệ chi đầu tư tăng lên 32% tổng chi ngân sách nhà nước, bảo đảm nguồn lực cho các dự án hạ tầng chiến lược, trọng điểm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 32,2% GDP, trong đó đầu tư của khu vực tư nhân và doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 65%.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng tăng trưởng qua hàng năm, đóng góp khoảng 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; Việt Nam thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới.
Về thị trường vốn, các thị trường vốn được tập trung hoàn thiện. Tính đến ngày 30/11/2025, quy mô vốn hóa toàn thị trường chứng khoán Việt Nam đạt hơn 390 tỷ USD, tương đương 81,93% GDP năm 2024… Những kết quả trên đã tạo nền tảng quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, thẳng thắn nhìn nhận, Lãnh đạo Bộ Tài chính cho rằng, mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào vốn, lao động giá rẻ và xuất khẩu gia công đang dần chạm tới giới hạn, trong khi bối cảnh quốc tế thay đổi nhanh với cạnh tranh chiến lược gia tăng, phân mảnh thương mại và các chuẩn mực mới như thuế tối thiểu toàn cầu, cơ chế điều chỉnh biên giới carbon và yêu cầu phát triển xanh, bền vững. “Điều này đòi hỏi Việt Nam phải tăng trưởng nhanh hơn nhưng đồng thời chất lượng hơn và bền vững hơn” - ông Trung nói.
Đồng quan điểm, chia sẻ thêm thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam, TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, tính dễ tổn thương của nền kinh tế còn khá cao do phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, đầu tư nước ngoài; mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp Việt còn ở mức thấp, tỷ lệ nội địa hóa chưa cao (hiện mới đạt khoảng 37%).
Cùng với đó, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa có đột phá; nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình hiện hữu. Đặc biệt, nhu cầu huy động nguồn lực tài chính là rất lớn, trong khi đó các kênh huy động và cách phân bổ, tính hiệu quả vẫn là thách thức rất lớn.
Từ ngành ngân hàng, bà Hà Thu Giang – Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cho biết, hoạt động tín dụng ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Chẳng hạn như, sức ép cung ứng vốn cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng vẫn lớn trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng. Mặt khác, nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội tăng cao trong khi huy động vốn từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy vai trò là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn chủ yếu của nền kinh tế.
Ngoài ra, nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn, tạo áp lực cho các tổ chức tín dụng trong cung ứng vốn tín dụng để thực hiện dự án, cũng như rủi ro kỳ hạn cho các tổ chức tín dụng do nguồn vốn chính để các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn ngắn (chiếm 80% tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng).

Cần đổi mới mạnh mẽ tư duy huy động và sử dụng nguồn lực tài chính
Trong giai đoạn 2026-2030, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số. Thứ trưởng Đỗ Thành Trung cho biết, để đạt được mục tiêu này, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần đạt bình quân khoảng 40% GDP, đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ tư duy huy động và sử dụng nguồn lực, với phương châm lấy nội lực làm nền tảng chiến lược, lâu dài; ngoại lực là quan trọng, mang tính đột phá. Trọng tâm không chỉ là huy động cho đủ vốn, mà là phân bổ đúng chỗ, sử dụng hiệu quả và tạo giá trị gia tăng cao.
Theo đó, gợi mở giải pháp, Lãnh đạo Bộ Tài chính cho rằng, trước hết, chính sách tài khóa cần tiếp tục đóng vai trò kiến tạo tăng trưởng dài hạn, được điều hành chủ động, bền vững và có trọng tâm, trọng điểm; cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng nâng cao tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tập trung cho hạ tầng chiến lược, liên vùng, hạ tầng số, năng lượng và chuyển đổi xanh.
Thứ hai, thị trường vốn cần trở thành trụ cột huy động nguồn lực trung và dài hạn, giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng; xây dựng thị trường vốn minh bạch, an toàn, có chiều sâu, thu hút hiệu quả các dòng vốn dài hạn trong và ngoài nước.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nhằm vừa giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, vừa hỗ trợ tăng trưởng ở mức cao trong bối cảnh có nhiều rủi ro bên ngoài.
Đặc biệt, cải cách thể chế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cần được coi là giải pháp nền tảng, mang tính quyết định. “Một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, chi phí tuân thủ thấp và khả năng dự báo cao chính là “thỏi nam châm” bền vững nhất để thu hút và giữ chân các nguồn lực tài chính, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược dài hạn” - Thứ trưởng Đỗ Thành Trung nhấn mạnh.
Về phía ngành ngân hàng, bà Hà Thu Giang cho biết, để góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu hai con số trong giai đoạn tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng cường thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng, phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Đặc biệt, ngành ngân hàng sẽ tập trung hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các dự án, công trình trọng điểm, khả thi.
Đồng thời, đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp dưới nhiều hình thức để tháo gỡ, chia sẻ khó khăn và tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho khách hàng.
Chia sẻ thêm khuyến nghị, bà Nguyễn Hoài Thu - Tổng Giám đốc Khối Đầu tư chứng khoán, VinaCapital cho rằng, để tăng cường huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, việc nâng hạng thị trường bởi FTSE là khởi đầu quan trọng, song cần tiếp tục nâng cấp để đạt chuẩn “Mới nổi” của MSCI, bởi điều này sẽ giúp Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ đầu tư toàn cầu, từ đó có thể thu hút dòng vốn tổ chức dài hạn và bền vững.
Song song với đó, cần nâng cao năng lực quản lý thị trường, tính minh bạch, để củng cố niềm tin nhà đầu tư ngoại. Đồng thời, cần nhận thức đúng vai trò của ngành quỹ đối với thị trường vốn và nền kinh tế, cũng như tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật để thúc đẩy ngành quỹ phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới…/.
