Khó khăn, áp lực gia tăng, cần linh hoạt trong quản lý, điều hành kinh tế

(BKTO) - Thời gian qua, Việt Nam vẫn giữ vững được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, nhất là trong bối cảnh nhiều nền kinh tế lớn mất ổn định, đối mặt với rủi ro suy thoái. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) Nguyễn Chí Dũng, áp lực và khó khăn, thách thức trong những tháng cuối năm 2022, năm 2023 ngày càng gia tăng.



                
   

Kinh tế phục hồi tích cực nhưng còn nhiều khó khăn. Ảnh minh họa: vneconomy.vn

   

Kinh tế phục hồi tích cực nhưng áp lực đang gia tăng

8 tháng đầu năm 2022, kinh tế Việt Nam có bước phục hồi tích cực ngay từ đầu năm 2022, tăng trưởng GDP 06 tháng năm 2022 ước tăng 6,42% so với cùng kỳ, dự kiến cả năm sẽ vượt mục tiêu đề ra (6-6,5%), nếu tiếp tục nỗ lực, phấn đấu hơn nữa thì có khả năng sẽ đạt cao hơn ước tính ở thời điểm hiện tại.

Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, từ cuối tháng 07/2022 đến nay, tình hình thế giới nhìn chung diễn biến theo chiều hướng phức tạp, kém lạc quan hơn; khó khăn, thách thức ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn cầu, tiềm ẩn rủi ro chuyển từ các vấn đề về kinh tế sang xã hội, an ninh chính trị của một số quốc gia và khu vực.

Đáng chú ý hơn là một số yếu tố mới xuất hiện như nguy cơ suy thoái tại một số nền kinh tế lớn trở nên rõ ràng hơn, tình trạng thất nghiệp tại Mỹ tăng so với đầu năm 2022; nguồn cung khí đốt trở thành thách thức chưa từng có tại EU.

Mỹ và các nước G7 áp trần giá dầu xuất khẩu của Nga, áp lực tăng giá dầu tiếp tục có xu hướng yếu đi nhưng còn khó dự đoán. Hạn hán kéo dài trên diện rộng tại Trung Quốc, EU. Chính sách của Mỹ về công nghiệp bán dẫn; căng thẳng địa chính trị gia tăng tại một số khu vực…

Trung Quốc và một số nước gia tăng mức độ nới lỏng chính sách tài khóa, tiền tệ, trong khi Mỹ, EU, Anh và nhiều nước phát triển tiếp tục thu hẹp chính sách tiền tệ.

Những yếu tố này, cộng hưởng với các yếu tố đã được nhận diện, phân tích, đánh giá; các nước vẫn tiếp tục tìm kiếm cơ hội phát triển mới thông qua thúc đẩy các xu hướng trong dài hạn về phát triển kinh tế số, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí carbon…

Cùng với đó là thay đổi hành vi đầu tư, tiêu dùng; nâng cao hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu; thúc đẩy sản xuất trong nước nhằm nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ của nền kinh tế; áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu…

Áp lực và khó khăn, thách thức trong những tháng cuối năm 2022, năm 2023 ngày càng gia tăng - Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Cụ thể như hoạt động sản xuất, kinh doanh tuy đã phục hồi nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Giá cả hàng hóa thế giới, giá xăng dầu tuy có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng khó dự báo. Giá dầu tăng cao trong khi là nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất và tiêu dùng; thiếu hụt, gián đoạn nguồn cung, chi phí sản xuất, vận tải toàn cầu gia tăng… tạo áp lực lên lạm phát, giá cả hàng hóa trong nước.

Nhu cầu đồng USD lên cao, tác động rất lớn đến điều hành ổn định tỷ giá và mức dự trữ ngoại tệ. Thu hút FDI gặp nhiều khó khăn; xuất khẩu đối mặt với thách thức không nhỏ...

Chỉ ra một trong những thách thức lớn nhất hiện nay, lãnh đạo Bộ KHĐT cho rằng, đầu tư công tiếp tục là điểm nghẽn. Đến thời điểm này, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công vẫn tương tự mọi năm, chưa có chuyển biến đáng kể. Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công từ đầu năm đến ngày 31/8/2022 đạt 39,15% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 (40,6%).

Đồng thời với đó, một số chính sách, giải pháp chậm triển khai, phần nào làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, phục hồi nền kinh tế.

Nhấn mạnh rằng những nguyên nhân tồn tại đã lâu, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thẳng thắn nêu: còn có những vướng mắc, chồng chéo trong quy định pháp luật chuyên ngành về đất đai, xây dựng, ngân sách nhà nước, môi trường… Công tác chuẩn bị dự án chưa tốt, dự án phải điều chỉnh nhiều lần, thủ tục mất nhiều thời gian, công tác quản lý dự án còn nhiều bất cập.

Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; trong khi dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, có nguy cơ “dịch chồng dịch”.

Chủ động, linh hoạt ứng phó kịp thời với các tình huống phát sinh

Trước thực tế trên, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải thực hiện nhanh, hiệu quả, thực chất, toàn diện các Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP; Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; Chương trình phòng, chống dịch Covid-19 giai đoạn 2022-2023

Nêu quan điểm và giải pháp trọng tâm trong thời gian tới, lãnh đạo Bộ KHĐT cho rằng, cần chủ động, ứng phó linh hoạt, kịp thời với các tình huống phát sinh, cũng như tập trung thực hiện hiệu quả các giải pháp căn cơ trong trung và dài hạn để phấn đấu đạt các mục tiêu phát triển 05 năm.

Đồng thời bảo đảm hài hòa, gắn kết chặt chẽ giữa việc thực hiện các giải pháp để vừa phục hồi, vừa tăng trưởng, vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.

Các Bộ, cơ quan quản lý ngành cần chủ động, linh hoạt trong hành động, bởi diễn biến nhanh, khó lường của tình hình kinh tế đòi hỏi phản ứng chính sách phải nhanh, có trọng tâm, hiệu quả, kịp thời.

Liên quan đến chính sách tài khóa, cần nâng cao chủ động trong ban hành và tổ chức thực hiện, giảm thiểu tối đa độ trễ từ xây dựng, trình cấp có thẩm quyền đến tổ chức thực hiện, thời gian tác động chính sách đến nền kinh tế, người dân, doanh nghiệp.

Các chính sách hỗ trợ phải có trọng tâm, trọng điểm cho doanh nghiệp, người dân, nhất là người nghèo, người thu nhập thấp, song hành với việc bảo đảm dư địa chính sách tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế sau năm 2023.

Chính sách tiền tệ cần thận trọng, chủ động thích ứng với rủi ro lạm phát, tỷ giá, vừa bảo đảm linh hoạt để vừa kiềm chế lạm phát, vừa duy trì mặt bằng lãi suất, tỷ giá, tăng trưởng tín dụng hợp lý, đáp ứng nhu cầu tín dụng cho phục hồi sản xuất, kinh doanh; tăng cường công tác truyền thông về quan điểm, định hướng điều hành chính sách tiền tệ, góp phần tránh tâm lý kỳ vọng.
                
   

Chính sách tiền tệ cần thận trọng, chủ động thích ứng với rủi ro lạm phát, tỷ giá. Ảnh minh họa: dangcongsan.vn

   

Chính sách thương mại, sản xuất cần chủ động đánh giá, dự báo các mặt hàng có khả năng thiếu hụt tạm thời và trong dài hạn để có phương án điều tiết về nguồn cung hàng hóa, sản xuất trong nước nhất là thời gian cuối năm 2022, đầu năm 2023.

Đặc biệt, cần bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, an ninh lương thực; giảm thiểu tình trạng “được mùa, mất giá” trong sản xuất nông nghiệp, tranh thủ được cơ hội xuất khẩu khi giá tăng.

Trong quản lý điều hành, phải tăng cường công tác kiểm tra, quản lý thị trường, xử lý nghiêm các hành vi đầu cơ, găm hàng, tích trữ, làm giá, bảo đảm tính lành mạnh của thị trường.

Chính sách điều hành giá cần rà soát, tính toán lộ trình tăng giá phù hợp đối với các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, quản lý, trên cơ sở cân nhắc, đánh giá đầy đủ tác động đến lạm phát, đời sống người dân, đặc biệt là giá xăng dầu, điện, nước, dịch vụ y tế, giáo dục.

Đối với chính sách đầu tư, huy động nguồn lực, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, cần tiếp tục đẩy nhanh lộ trình đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; nâng cao hiệu quả hoạt động để phát huy nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; hoàn thiện quy định về trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán phái sinh, triển khai các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán nước ta từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi, để giảm bớt áp lực huy động vốn trung và dài hạn của hệ thống các tổ chức tín dụng.
         
Phấn đấu năm 2022 hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế vượt 7,5%; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát năm 2022 tăng dưới 4%, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng để phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng trưởng 05 năm (6,5-7%/năm). Giải ngân vốn đầu tư ngân sách nhà nước đạt 95%-100% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó vốn ngân sách địa phương đạt 100%.

QUỲNH ANH
Cùng chuyên mục
Khó khăn, áp lực gia tăng, cần linh hoạt trong quản lý, điều hành kinh tế