
Thưa ông! Văn kiện Đại hội XIII xác định "đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng", "tạo bứt phá" trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Theo ông, chủ trương này đã được triển khai như thế nào trong nhiệm kỳ 2021-2025?
Theo dõi tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam 5 năm qua có thể thấy rằng chủ trương đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng và tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh mà Đại hội XIII đề ra đã được triển khai khá sâu rộng, với nhiều tín hiệu tích cực.
Điểm nổi bật đầu tiên là sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy và định hướng chính sách. Những năm qua, chúng ta chứng kiến nhiều chiến lược lớn của đất nước đặt KHCN, ĐMST và chuyển đổi số (CĐS) vào vị trí trung tâm của mô hình tăng trưởng. Việc hoạch định các mục tiêu định lượng cụ thể cho thấy tư duy phát triển đã tiến gần hơn với mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức thay vì chỉ dựa vào đầu tư vốn và lao động như giai đoạn trước.
Trong triển khai thực tế, CĐS là lĩnh vực chứng kiến sự thay đổi nhanh và rõ rệt nhất. Dễ nhìn thấy nhất là thanh toán số và tài chính số bùng nổ khi tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng đã tiệm cận mức trên 87%, còn giao dịch không dùng tiền mặt tăng mạnh qua từng năm. Thương mại điện tử duy trì tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, đạt quy mô hơn 25 tỷ USD trong năm 2024, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường năng động của châu Á.
Hệ thống dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước số và định danh điện tử tạo ra bước tiến quan trọng trong quản trị công, giúp giảm chi phí giao dịch và nâng cao tính minh bạch. Những chuyển đổi này đã đặt nền móng cho các mô hình kinh tế số, xã hội số và chính phủ số.
Năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) có cải thiện so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, cả hai chỉ số đều chưa đạt mức mà Đại hội XIII kỳ vọng, chủ yếu vì năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp (DN) còn hạn chế, đầu tư cho R&D vẫn ở mức thấp, hiện chỉ mới khoảng 0,5% GDP, trong khi con số này ở Hàn Quốc, Nhật Bản hay Trung Quốc đều từ 2% đến 4%. Điều này phản ánh thực tế rằng Việt Nam đã xác lập được hướng đi đúng nhưng vẫn thiếu lực đẩy đủ mạnh để tạo ra chuyển biến về chất.
Dù vậy, những ngành kinh tế mới bắt đầu định hình là tín hiệu rất đáng chú ý. Năng lượng tái tạo phát triển nhanh trong những năm qua, đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia có mức độ mở rộng năng lượng mặt trời và điện gió cao trong khu vực. Ngành bán dẫn và thiết kế chip bắt đầu thu hút đầu tư quy mô lớn, mở ra hướng phát triển công nghiệp công nghệ cao mới.
Cùng với đó, các lĩnh vực như trung tâm dữ liệu, AI ứng dụng, công nghệ tài chính, dịch vụ điện toán đám mây hay sản xuất thông minh đều tăng tốc nhanh hơn so với giai đoạn trước. Đây là những mảnh ghép quan trọng của mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức mà Việt Nam đang hướng tới.
Tuy nhiên, mức độ lan tỏa của ĐMST trong toàn nền kinh tế vẫn hạn chế. Phần lớn DN nhỏ và vừa chưa có đủ điều kiện vốn, nhân lực hay hạ tầng để đầu tư công nghệ mới. Liên kết giữa trường đại học với DN còn lỏng lẻo, thiếu cơ chế để chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất.
Thị trường vốn cho ĐMST còn yếu, các quỹ đầu tư mạo hiểm, chính sách tín dụng cho R&D hay cơ chế thử nghiệm chính sách (sandbox) chưa phát triển tương xứng với nhu cầu. Khu vực kinh tế nhà nước vốn được kỳ vọng đi đầu trong đổi mới công nghệ và thực tế là đã có nhiều nỗ lực nhưng chưa tạo được các dự án đầu tàu tầm khu vực như mô hình của Hàn Quốc, Singapore hay Trung Quốc trong giai đoạn cất cánh.
Tóm lại, nhiệm kỳ 2021-2025 có thể coi là giai đoạn đặt nền móng quan trọng cho mô hình tăng trưởng mới dựa trên KHCN và ĐMST. Tư duy đã thay đổi, định hướng chiến lược đã rõ ràng, CĐS đạt kết quả vượt mong đợi trong một số lĩnh vực và các ngành kinh tế mới cũng đã bắt đầu hình thành. Tuy vậy, để bứt phá đúng nghĩa, nhiệm kỳ tới vẫn còn nhiều việc phải làm…
Ông có thể cho biết đâu là những việc cần phải làm để KCHN, ĐMST và CĐS bứt phá, thực sự trở thành động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế trong nhiệm kỳ tới?
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục nhấn mạnh KHCN, ĐMST, CĐS và phát triển kinh tế tư nhân là hướng đi hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ 2026-2030, các giải pháp này buộc phải được nâng tầm, chuyển từ khẩu hiệu, định hướng chung sang các cam kết định lượng và cải cách thể chế đủ mạnh để biến chủ trương, chính sách thành động lực tăng trưởng hữu hình, có thể đo đếm được, nhìn thấy được.
Thực tế hiện nay cho thấy chúng ta đang đứng trên một nền tảng vừa có cơ hội rất lớn, vừa bộc lộ rõ những giới hạn. Những con số về KHCN, kinh tế số, kinh tế tư nhân chứng tỏ hạt giống động lực mới đã có, nhưng để nảy nở thành động cơ chính cho giai đoạn 2026-2030, chúng ta phải thay đổi mức độ cam kết và phương thức tổ chức thực thi.
Thứ nhất, với KHCN và ĐMST, cần chuyển từ tư duy hỗ trợ nghiên cứu sang tư duy đặt hàng nhiệm vụ quốc gia gắn với các mục tiêu phát triển hay KPI cụ thể. Khi ĐMST và CĐS là động lực chính của mô hình tăng trưởng mới, đi kèm phải là những cam kết rõ về tỷ lệ chi KHCN trong dự toán và quyết toán ngân sách quốc gia và địa phương, lộ trình nâng dần lên tiệm cận chuẩn mực quốc tế và đặc biệt là cấu trúc nguồn vốn, trong đó khu vực nhà nước phải đóng vai trò vốn mồi để kích hoạt vốn tư nhân tham gia.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước mới nổi cũng đã đặt mục tiêu đưa chi R&D lên khoảng 2% GDP, với trên 60% đến từ khu vực DN. Để đổi mới mô hình tăng trưởng, chúng ta phải thiết kế lại hệ thống quỹ KHCN, có ít nhất một Quỹ ĐMST đủ lớn ở tầm quốc gia, cơ chế tài trợ cạnh tranh, đánh giá độc lập, đồng thời dùng đơn đặt hàng của Nhà nước, mua sắm công và các nhiệm vụ chiến lược làm lực kéo để DN bỏ vốn vào R&D, thay vì chỉ trông chờ ngân sách.

Thứ hai, CĐS trong nhiệm kỳ tới phải nâng cấp từ giai đoạn số hóa dịch vụ và giao dịch đơn lẻ sang giai đoạn xây dựng đầy đủ hạ tầng dữ liệu và dữ liệu. Việc kinh tế số đã chiếm khoảng 1/5 GDP và tăng hơn 20%/năm cho thấy tiềm năng rất lớn, nhưng để chạm mốc 35% GDP đòi hỏi thể chế phải vượt trội, đẩy nhanh xây dựng các kho dữ liệu dùng chung quốc gia, chuẩn hóa và bắt buộc kết nối giữa các hệ thống, mở rộng cơ chế sandbox để thử nghiệm mô hình kinh doanh mới trong tài chính số, y tế số, giáo dục số, đô thị thông minh… đồng thời nâng chất lượng nguồn nhân lực số.
Nói cách khác, CĐS phải được nhìn như một cuộc cách mạng về phương thức lãnh đạo, quản trị và phục vụ; ở đó, dữ liệu là tài nguyên tối quan trọng và người dân phải là trung tâm.
Cùng với KHCN và ĐMST, kinh tế tư nhân cần được phát triển theo hướng nào để thực sự bứt phá mạnh mẽ thưa ông?
Với kinh tế tư nhân, nâng tầm không chỉ là tăng tỷ trọng GDP thêm vài điểm phần trăm mà là làm sao để khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành lực lượng dẫn dắt ĐMST, hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu và đóng vai trò chính trong đầu tư mới vào các ngành công nghệ, dịch vụ giá trị gia tăng cao. Hiện nay, mặc dù kinh tế tư nhân đã đóng góp hơn một nửa GDP cả nước và phần lớn việc làm nhưng chủ yếu tập trung ở khu vực DN nhỏ, siêu nhỏ, năng suất thấp và ít đầu tư cho công nghệ.
Để các trụ cột về KHCN, ĐMST, CĐS, kinh tế tư nhân thực sự cộng hưởng thành động lực tăng trưởng mới, chúng ta cần một cách tiếp cận tích hợp tầm quốc gia, lựa chọn một vài sứ mệnh lớn, ví dụ như phát triển trung tâm bán dẫn và điện tử khu vực, trở thành nền kinh tế số hàng đầu ASEAN, hay trung tâm ĐMST về năng lượng sạch... Điều này cũng đồng nghĩa với việc trao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình mạnh hơn cho một số bộ, ngành, địa phương, đô thị lớn, khu kinh tế, khu công nghệ cao để họ trở thành phòng thí nghiệm chính sách cho các mô hình mới, thay vì dàn hàng ngang, làm đồng loạt và chọn cái an toàn.
Trong giai đoạn 2026-2030, thể chế phải xoay trục theo hướng: Tạo sân chơi bình đẳng thực sự giữa DN tư nhân và DN nhà nước, giữa DN lớn và DN nhỏ. Cải cách mạnh thị trường vốn, đặc biệt là vốn dài hạn, thị trường chứng khoán, trái phiếu, quỹ đầu tư mạo hiểm… để vốn tìm đến các DN sáng tạo, DN vừa và nhỏ có tiềm năng tăng trưởng nhanh. Giảm rủi ro thể chế cho khu vực tư nhân thông qua pháp quyền, bảo vệ quyền tài sản, ổn định chính sách, nâng cao chất lượng tư pháp và thi hành hợp đồng.
Với vai trò là cơ quan kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, KTNN cần làm gì để có thể đồng hành cùng sự phát triển của nền kinh tế trong nhiệm kỳ mới?
Thiết nghĩ, trong nhiệm kỳ mới, KTNN cần chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình kiểm tra sau sang mô hình đồng hành, kiến tạo để vừa bảo đảm kỷ luật tài khóa, vừa thúc đẩy ĐMST, đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của KTNN không chỉ là phát hiện sai phạm, thất thoát hay lãng phí mà ngày càng phải trở thành trụ cột trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực quốc gia. Đây là yếu tố then chốt để Việt Nam duy trì tăng trưởng cao và chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh quốc tế.
Trước hết, KTNN cần nâng cao chất lượng và tính kịp thời của kiểm toán, chuyển từ cách tiếp cận hậu kiểm sang nâng cao khả năng dự báo, phòng ngừa và cảnh báo sớm nhằm phát tín hiệu rủi ro tài khóa, nợ công, tiến độ đầu tư công và các nguy cơ gây thất thoát nguồn lực.
KTNN cần hình thành các báo cáo cảnh báo định kỳ về những lĩnh vực có rủi ro cao, ví dụ như giải ngân đầu tư công chậm, đội vốn các dự án hạ tầng, chi phí đầu vào trong xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, sử dụng tài sản công, áp dụng sai chuẩn mực kế toán trong đơn vị sự nghiệp và DN nhà nước… Cơ chế cảnh báo sớm sẽ giúp Chính phủ điều chỉnh chính sách kịp thời, giảm thiểu sai sót và tránh phát sinh tham nhũng, lãng phí và cả những vụ án không đáng có.

Thứ hai, trong bối cảnh nền kinh tế chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên KHCN, ĐMST với nhiều mô hình tài chính, đầu tư mới, KTNN cần nâng cấp năng lực kiểm toán hiện đại, áp dụng mạnh phân tích dữ liệu lớn, kiểm toán số và chuẩn mực quốc tế. Việc đầu tư vào công nghệ kiểm toán, kết nối cơ sở dữ liệu dân cư, đất đai, tài chính, ngân sách, DN và hệ thống kế toán công sẽ giúp KTNN giảm đáng kể chi phí kiểm toán, tăng độ chính xác và phát hiện bất thường kịp thời.
Thứ ba, KTNN cần đẩy mạnh kiểm toán hiệu quả và giá trị đồng tiền (value for money) thay vì tập trung quá nhiều vào tuân thủ thủ tục. Giai đoạn 2026-2030 là thời kỳ Việt Nam phải đầu tư lớn vào hạ tầng giao thông, chuyển đổi năng lượng, đô thị hóa và KHCN. Do đó, điều cần đảm bảo không chỉ là đúng quy định/quy trình mà là đúng hiệu quả, tạo ra giá trị tăng thêm cho đất nước. Kiểm toán hiệu quả sẽ giúp phát hiện các điểm nghẽn làm đội vốn dự án, kéo dài tiến độ, giảm hiệu suất vốn đầu tư, từ đó kiến nghị điều chỉnh chính sách và cơ chế thực thi.
Thứ tư, KTNN cần đóng vai trò tích cực hơn trong phòng ngừa tham nhũng, lợi ích nhóm và xung đột lợi ích. Hiện nay, thị trường vốn, đất đai, tài sản công, mua sắm công, đầu tư công và quản lý DN nhà nước còn nhiều lỗ hổng, nguy cơ lãng phí và thất thoát rất lớn. KTNN cần tăng mức độ độc lập, chuyên nghiệp và trách nhiệm giải trình, đồng thời siết chặt các cơ chế công khai, minh bạch hóa kết luận kiểm toán.
Đặc biệt, KTNN nên phối hợp chặt chẽ với Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính, Kiểm toán nội bộ tại các bộ, ngành và các cơ quan phòng chống tham nhũng để tạo thành bức tường bảo vệ tài sản công thống nhất, tránh trùng lặp nhưng tăng hiệu quả giám sát.
Cuối cùng, để đồng hành cùng phát triển kinh tế, KTNN cần chuyển vai trò từ kiểm soát sang hỗ trợ xây dựng một nhà nước kiến tạo theo tinh thần của Tổng Bí thư. Việc công khai các báo cáo kiểm toán chuyên đề về đầu tư công, tài chính địa phương, tài sản công, hay suất đầu tư các dự án hạ tầng lớn sẽ giúp thị trường minh bạch hơn, giảm bất đối xứng thông tin và nâng cao niềm tin của nhà đầu tư.
KTNN cũng có thể đề xuất các khuyến nghị chính sách sâu hơn cho Quốc hội và Chính phủ về cải cách tài chính công, quản lý nợ công, cơ chế phân cấp ngân sách, hay sửa đổi Luật Đầu tư công, Luật Đất đai, Luật Quản lý tài sản công để giảm lãng phí và tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực quốc gia.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
