Nâng cao hiệu quả huy động tài chính cho giáo dục đại học công lập

(BKTO) - Với vai trò cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế, giáo dục đại học (GDĐH) là nền tảng quan trọng và là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Trong những năm qua, các trường đại học công lập (ĐHCL) ở Việt Nam đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống GDĐH cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục ĐHCL, tài chính là một nguồn lực rất quan trọng, đồng thời cũng là vấn đề còn nan giải đối với giáo dục hiện nay.




Chính phủ xác định tự chủ đại học là xu hướng tất yếu của các trường đại học công lập - Ảnh: thanhnien.vn
NSNN vẫn là nguồn tài chính chủ đạo

Với việc ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ- CP ngày 14/02/2015 về quy định cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị quyết số 77/NQ- CP ngày 24/10/2014 về việc thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục công lập giai đoạn 2014- 2017, Chính phủ đã xác định tự chủ đại học là xu hướng tất yếu của các trường ĐHCL. Trong đó, tự chủ tài chính đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững các nội dung tự chủ công tác tổ chức- điều hành và tự chủ hoạt động.

Tài chính cho GDĐH công lập ở nước ta hiện nay được hình thành từ nhiều nguồn, bao gồm: nguồn NSNN cấp; nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công; nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định; nguồn tài chính có từ các giao dịch tài chính; nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật; nguồn hỗ trợ tài chính cho sinh viên. Có thể thấy rằng, nguồn tài chính huy động cho GDĐH công lập trong điều kiện tự chủ hiện nay là tương đối đa dạng. Tuy nhiên, các nguồn lực này lại đang có sự chênh lệch lớn và chưa được tận dụng hiệu quả.

Trong đó, nguồn NSNN cấp vẫn là nguồn tài chính quan trọng của các trường ĐHCL hiện nay. Theo báo cáo của Bộ Tài chính về “Đánh giá tình hình thực hiện tự chủ tài chính và định hướng đổi mới cơ chế tài chính đối với các trường ĐHCL giai đoạn 2012- 2020”, nguồn thu từ NSNN chiếm từ 30-40% tổng thu của các trường ĐHCL hằng năm. Cơ chế phân bổ NSNN cho GDĐH nói riêng và giáo dục nói chung tuân theo các quy định trong Luật NSNN năm 2002 (được chỉnh sửa năm 2015), xác định rõ hai cấp là trung ương và địa phương với rất nhiều bên liên quan, đặc biệt là các bộ. Mặc dù Đề án đổi mới GDĐH đã đưa ra biện pháp nhằm “loại bỏ sự kiểm soát của các bộ chủ quản”, song điều này vẫn chưa được thực hiện làm quá trình phân bổ NSNN trở nên quá phức tạp. Ngoài ra, cơ chế phân bổ NSNN vẫn mang tính bình quân giữa các trường ĐHCL, chưa gắn với các tiêu chí phản ánh chất lượng và kết quả đầu ra, dẫn đến tình trạng trông chờ vào NSNN, gây cản trở lớn trong việc thực hiện cơ chế tự chủ, đồng thời dẫn đến tình trạng thiếu động lực cạnh tranh giữa các trường đại học.

Theo nghiên cứu của tác giả Bùi Văn Huyền - Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tác giả Trần Hương Xuân - Đại học Nội vụ Hà Nội - đối với nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công, học phí vẫn là nguồn thu chủ yếu, các nguồn thu khác từ hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ tư vấn và chuyển giao khoa học công nghệ, dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo... còn hạn chế. Điều này cho thấy, các trường ĐHCL ở nước ta vẫn là trường “đào tạo” chưa phải là trường “nghiên cứu” như ở các nước có nền giáo dục phát triển mạnh trên thế giới. Để tăng nguồn thu, các trường ĐHCL đã mở rộng các loại hình đào tạo không chính quy, liên kết đào tạo, tuy nhiên trên thực tế các khoản thu từ hoạt động này lại giảm mạnh trong vài năm gần đây.

Ngay sau khi Việt Nam mở rộng mối quan hệ với các tổ chức quốc tế, các trường ĐHCL ở Việt Nam đã nhận được sự cam kết hỗ trợ từ nhiều nhà tài trợ, bao gồm cả song phương và đa phương, trong đó chủ yếu là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. Tuy nhiên, việc huy động ODA cho GDĐH ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, tỷ lệ giải ngân chung trong ngành giáo dục và đào tạo chỉ đạt 68%, thấp hơn tỷ lệ giải ngân của các nước khác trong khu vực. Không chỉ vậy, hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA thấp, số tiền sử dụng và mục đích không khớp với những gì đã đề ra, gây lãng phí nguồn vốn ODA.

Cũng theo nghiên cứu của hai tác giả, trong thời gian qua, một số trường ĐHCL đã huy động được vốn từ các nhà đầu tư thông qua liên doanh, liên kết hoặc vay các tổ chức tín dụng để đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới trang thiết bị thí nghiệm, thực hành, học tập và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, việc huy động nguồn tài chính qua các giao dịch tài chính còn nhiều hạn chế. Nhà nước vẫn chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể cho các trường ĐHCL thực hiện thí điểm tự chủ được vay vốn ưu đãi hoặc được hỗ trợ lãi suất để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, mức độ tự chủ của các trường ĐHCL hiện nay chưa cao, hoạt động đầu tư tài chính của các trường ĐHCL còn rất hạn hẹp, thu nhập chủ yếu chỉ là lãi tiền gửi ở các tổ chức tín dụng.

Một nguồn tài chính nữa phổ biến tại các trường đại học đó là từ chính sách hỗ trợ cho sinh viên đại học công lập, bao gồm các dự án như: Dự án học bổng khuyến khích học tập; Dự án học bổng chính sách; Dự án trợ cấp xã hội; Dự án miễn, giảm học phí cho sinh viên. Đặc biệt, Dự án tín dụng sinh viên qua 10 năm triển khai đã đem lại nhiều kết quả tích cực, hơn 3,5 triệu lượt học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ vay tín dụng. Tuy nhiên, khảo sát đánh giá các dự án tín dụng sinh viên trong thời gian qua cho thấy, thủ tục vay vốn còn nhiều bất cập, các loại giấy tờ theo mẫu xác nhận không bảo đảm chuẩn mực chung làm cho sinh viên gặp khó khăn. Việc hoàn trả vốn quy định 12 tháng sau khi tốt nghiệp là một trong những điều bất khả thi trong thị trường lao động Việt Nam hiện nay. Nếu cha mẹ sinh viên đứng ra bảo lãnh tiền vay, mỗi năm 10 triệu đồng với chu kỳ 4- 5 năm thì 40 - 50 triệu đồng vay là một thách thức lớn đối với nhiều gia đình.

Theo phản ánh của Ngân hàng Chính sách xã hội, hiện nay, doanh số cho vay đang giảm mạnh do mức vay thấp so với nhu cầu thực tế. Tính trung bình một sinh viên học tại Hà Nội phải chi 3-4 triệu đồng/tháng, nhưng dù qua nhiều lần điều chỉnh, hạn mức cho vay vốn đối với sinh viên vẫn ở mức tối đa là 1,5 triệu đồng/tháng. Do đó, nhiều sinh viên dù được vay vốn vẫn không đảm bảo theo học.

Nâng cao hiệu quả huy động tài chính cho GDĐH

Theo nghiên cứu của hai tác giả, trước tiên, cần đổi mới phương thức phân bổ kinh phí NSNN cho GDĐH. Việt Nam hiện nay lựa chọn mô hình phân bổ NSNN chủ yếu dựa trên yếu tố đầu vào như số lượng sinh viên tuyển sinh, chưa khuyến khích được tính hiệu quả. Vì vậy, cần có sự chuyển đổi tiêu chí phân bổ dựa trên các yếu tố đầu ra, phản ánh hiệu suất hoạt động của trường đại học. Các cơ sở GDĐH công lập cần tăng mức độ tự chủ tài chính và theo lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, dần tiến tới không còn cấp phát, hỗ trợ từ NSNN nữa mà chuyển sang phương thức Nhà nước đặt hàng đào tạo theo nhu cầu sử dụng.

Khi mức hỗ trợ kinh phí từ NSNN giảm dần, các trường thực hiện tự chủ tài chính cần được trao quyền quyết định mức thu học phí cụ thể cho phù hợp với từng ngành học và từng đối tượng người học. Đồng thời, các trường cần tạo điều kiện cho người học được tiếp cận, lựa chọn ngành học phù hợp với nhu cầu học tập và khả năng chi trả của người học. Chính sách học phí này cũng là công cụ định hướng nghề nghiệp cho người học, tránh tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm, gây lãng phí nguồn lực cho xã hội.

Các trường đại học cần chú trọng đến việc huy động nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả năng của các trường như: đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn với các tổ chức trong và ngoài nước; tổ chức thi tuyển dụng, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp; dự án sản xuất- thử nghiệm; các hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ; dịch vụ tư vấn; phát hành sách, ấn phẩm…

Để giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà nước đối với chính sách đầu tư cho sinh viên, tác giả tác giả Bùi Văn Huyền và Trần Hương Xuân đưa ra một số giải pháp như: quy định nhiều định mức cho vay tương ứng với từng nhóm đối tượng, xem xét mức NSNN có thể hỗ trợ dựa trên mức chi phí sinh hoạt trung bình của một sinh viên, tiến tới có thể cho vay đủ để trang trải cả tiền học phí và sinh hoạt phí. Ngoài ra, cơ chế tín dụng cần có sự mở rộng về lãi suất, gồm: lãi suất ưu đãi thấp cho nhóm đối tượng nghèo, cận nghèo; lãi suất thấp hơn mức lãi suất NHTM cho các nhóm khác; giảm lãi suất nếu trả trước thời hạn. Ngoài nguồn vốn cho vay với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội, Nhà nước có thể vận động các tổ chức cùng tham gia Quỹ hỗ trợ sinh viên.

Một giải pháp nữa được nhiều chuyên gia nhắc đến là chủ trương xã hội hóa GDĐH. Các trường ĐHCL cần huy động vốn vay từ các chương trình kích cầu của địa phương, vay của các tổ chức tín dụng phục vụ phát triển cơ sở vật chất và hoàn trả lại bằng nguồn thu hợp pháp của trường. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ban hành các quy định cụ thể hướng dẫn về việc liên doanh, liên kết, đặc biệt là tiến tới hình thành các DN khoa học và công nghệ trong các trường ĐHCL; thể chế hóa việc huy động nguồn lực DN cho GDĐH bằng cách ban hành chính sách khuyến khích các DN hỗ trợ GDĐH thông qua miễn thuế TNDN.

Trong điều kiện tự chủ đại học ngày càng nâng cao, xã hội hóa GDĐH ngày càng mở rộng, Nhà nước nên có các biện pháp huy động của tổ chức, cá nhân ngoài nước đầu tư trực tiếp để thành lập cơ sở giáo dục, đào tạo 100% vốn nước ngoài; vốn liên doanh, liên kết giữa các cơ sở trong nước và ngoài nước; vốn không hoàn lại, vốn quyên góp, cho tặng dưới các hình thức khác nhau của của các tổ chức quốc tế, của Chính phủ, phi Chính phủ.
THÙY LÊ
Cùng chuyên mục
  • Khẩn trương đề xuất phương án mua thuốc chống lao năm 2019- 2020
    5 năm trước Xã hội
    (BKTO) - Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 404/TB-VPCP thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ về mua sắm, thanh toán thuốc chống lao.
  • Hơn 112,5 tỷ đồng mua thuốc ARV trong năm 2019
    5 năm trước Xã hội
    (BKTO)- Trung tâm Mua sắm tập trung thuốc Quốc gia (Bộ Y tế) vừa ban hành quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu Gói thầu Mua thuốc kháng vi rút HIV (ARV) nguồn Bảo hiểm y tế (BHYT) và chi phí cùng chi trả cho các cơ sở điều trị trên toàn quốc năm 2019 của Trung tâm Mua sắm tập trung thuốc Quốc gia thuộc kế hoạch lựa chọn nhà thầu được Bộ Y tế phê duyệt.
  • Đơn vị quản lý hen phải có ít nhất 1 bác sĩ
    5 năm trước Xã hội
    (BKTO) - Đây là một trong những tiêu chí của đơn vị quản lý hen và bệnh phối tắc nghẽn mạn tính áp dụng thí điểm trong chương trình “Vì lá phổi khoẻ” tại Việt Nam giai đoạn 2017- 2020, do Bộ Y tế ban hành.
  • Chia sẻ thông tin về tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp
    5 năm trước Xã hội
    (BKTO) - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) vừa có công văn đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) phối hợp và chia sẻ dữ liệu thông tin tuyển sinh, qua đó giúp người học có thêm sự lựa chọn theo học nghề, bên cạnh việc đăng ký học đại học. Đây là thông tin được TS. Vũ Xuân Hùng- Vụ trưởng Vụ Đào tạo chính quy, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ LĐ-TB&XH cung cấp.
  • Bảo Việt Nhân thọ chi trả 8,4 tỷ đồng bảo hiểm cho khách hàng
    5 năm trước Xã hội
    (BKTO) - Ngày 21/10, Bảo Việt Nhân thọ đã tổ chức chi trả quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng bị thiệt mạng do hỏa hoạn tại TP. Hồ Chí Minh với số tiền chi trả 8,4 tỷ đồng. Đây là một trong những trường hợp chi trả quyền lợi bảo hiểm lớn nhất trong lịch sử chi trả của Bảo Việt Nhân thọ, cũng như trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Nâng cao hiệu quả huy động tài chính cho giáo dục đại học công lập