Tại Phiên thảo luận, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đều đồng tình với sự cần thiết đầu tư và điều chỉnh chủ trương đầu tư của 3 dự án trên, nhằm kết nối các trung tâm kinh tế và các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Cao tốc Quy Nhơn - Pleiku giúp giảm 50-60% chi phí và thời gian vận tải
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) cho rằng, việc Chính phủ trình Quốc hội điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 là cần thiết. Đây không chỉ là công trình hạ tầng giao thông trọng yếu mà còn mang tính chiến lược trong việc kết nối vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đặc biệt là giữa cảng hàng không quốc tế Long Thành, hệ thống cảng biển Cái Mép - Thị Vải và tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông.
Qua nghiên cứu, ông Nguyễn Tâm Hùng đánh giá, việc đề xuất điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án từ 17.837 tỷ đồng lên 21.551 tỷ đồng là kết quả của quá trình triển khai trên thực tế, phản ánh đầy đủ các yếu tố biến động khách quan, đặc biệt là chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Quan tâm đến Dự án đường bộ cao tốc Quy Nhơn – Pleiku, đại biểu Siu Hương (Đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai) cho biết, đây là dự án có ý nghĩa chiến lược, là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và thúc đẩy liên kết vùng.

Đồng thời, đây là trục giao thông Đông - Tây quan trọng nhất kết nối khu vực Tây Nguyên với các cảng biển lớn như Quy Nhơn, Dung Quất, đồng thời mở ra cơ hội giao thương xuyên biên giới với Nam Lào và Đông Bắc Campuchia.
“Việc đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku sẽ rút ngắn thời gian di chuyển xuống còn 2 đến 2,5 giờ, giảm 50 đến 60% chi phí và thời gian vận tải. Qua đó, dự án giúp giảm chi phí logistics, tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển nông sản và hàng hóa xuất nhập khẩu, đặc biệt là các sản phẩm chủ lực của Tây Nguyên như cà phê, hồ tiêu, cao su ra cảng biển Quy Nhơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thu hút đầu tư FDI” – đại biểu Siu Hương phân tích.
Đặc biệt, việc đầu tư Dự án còn mang ý nghĩa chiến lược trong bối cảnh sắp xếp lại không gian hành chính và kinh tế. Do đó, đại biểu đề nghị Quốc hội ủng hộ, biểu quyết thông qua chủ trương đầu tư dự án, để có thể khởi công vào cuối năm 2025 và hoàn thành vào năm 2029, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của tỉnh Gia Lai mới.
Tỉnh Gia Lai đã rất chủ động trong công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng dự án như thống nhất hướng tuyến, rà soát 60 mỏ đất đắp và 38 mỏ đá, cam kết bố trí ngân sách cho giải phóng mặt bằng.
Đại biểu Siu Hương
Cũng ủng hộ chủ trương đầu tư dự án này, đại biểu Nguyễn Trúc Sơn (Đoàn ĐBQH Bến Tre) tán thành việc chỉ định với gói thầu tư vấn để đẩy nhanh tiến độ, vì đây là khâu thường tốn nhiều thời gian.
Tuy nhiên, với các gói thầu xây lắp, đại biểu đề nghị không ghi "chỉ định thầu" ngay trong Dự thảo Nghị quyết mà nên giao Chính phủ quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu phù hợp theo Luật Đấu thầu tùy theo tính cấp bách của từng giai đoạn, để lựa chọn được nhà thầu có năng lực tốt nhất.
Trong trường hợp đấu thầu, đại biểu đề nghị áp dụng hình thức "một gói thầu, hai túi hồ sơ". Theo đó, bước đầu là đánh giá năng lực kỹ thuật của nhà thầu, sau đó mới xét đến yếu tố giá. Bởi hiện nay, nhiều dự án đầu tư công có hiện tượng nhà thầu bỏ giá thấp để trúng thầu, nhưng sau đó nảy sinh nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. “Đây là bài học thực tiễn mà chúng ta cần rút kinh nghiệm" - đại biểu nói.
Đảm bảo nguồn cung vật liệu cho dự án Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh
Cho ý kiến về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp) đồng tình với việc đầu tư dự án theo hình thức PPP (có thu phí). Tuy nhiên, đại biểu đề nghị nên cân nhắc lại việc xây dựng đường song hành (theo hình thức đầu tư công, không thu phí). Điều này sẽ gây khó khăn cho nhà đầu tư PPP trong việc thu phí, bởi người dân sẽ có xu hướng lựa chọn đi trên đường song hành miễn phí nhiều hơn.

Trước tình trạng vật liệu cát, đất san lấp khan hiếm, giá cao, đại biểu Phạm Văn Hòa đề xuất, tại những nơi có nền đất yếu, sụt lún như ở Long An, thay vì đắp nền đường, nên nghiên cứu thiết kế xây dựng cầu cạn. Việc này sẽ giúp giảm bớt áp lực về vật liệu san lấp, vừa đảm bảo chất lượng công trình lâu dài.
Đồng quan điểm, đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc) cũng kiến nghị với những đoạn tuyến có kết cấu nền đất đắp nên thiết kế xây dựng cầu cạn, giảm thu hồi đất, giảm khối lượng vật liệu đắp và hạn chế ngập úng, lụt lội.
Với các công trình cầu vượt sông, cầu vượt các đường ngang hoặc cầu cống hầm qua đường, ông cho rằng, nên đầu tư giai đoạn 1 hoàn chỉnh theo mặt cắt quy hoạch nhằm hạn chế khó khăn thi công ở giai đoạn sau.
Giải trình làm rõ ý kiến các ĐBQH, Bộ trưởng Trần Hồng Minh cho biết, về dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1, sở dĩ tổng mức đầu tư của dự án (đặc biệt là phần kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng) vượt hơn 3.000 tỷ đồng ở cả Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu là do quá trình khảo sát, lập chủ trương đầu tư từ năm 2019-2020. Đến khi triển khai thi công vào năm 2023-2024 thì phải áp dụng đơn giá mới, dẫn đến chênh lệch đáng kể.
Bên cạnh đó, dự án phát sinh thêm một nút giao khác mức Mỹ Xuân - Ngãi Giao kéo theo chi phí giải phóng mặt bằng và chi phí xây lắp.
Liên quan đến vấn đề áp dụng chính sách đặc thù, cơ chế chỉ định thầu, Bộ trưởng Trần Hồng Minh nêu rõ, do quy trình đấu thầu gặp khó khăn, ảnh hưởng tới tiến độ các dự án giao thông nên mới cần xin cơ chế đặc thù từ Quốc hội cho các dự án cấp bách.
"Nếu thủ tục chậm trễ mất 1-3 năm, sẽ dẫn đến trượt giá, đội vốn" - Bộ trưởng nói và nhấn mạnh khi áp dụng hình thức chỉ định thầu vẫn phải tuân thủ chặt chẽ quy định.
Trước lo ngại của đại biểu về tình trạng khan hiếm cát, đất san lấp, đặc biệt ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mật độ cao tốc ở khu vực này đang được đầu tư rất lớn, Bộ trưởng Trần Hồng Minh cho biết, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đang quyết liệt tìm các giải pháp. Vừa qua, một số địa phương vướng mắc về cơ chế, chính sách nên các mỏ khai thác không hết công suất hoặc vướng mắc về một số điều kiện khác.
“Riêng đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh, lượng cát của các tỉnh Long An, Tiền Giang và một số tỉnh lân cận sẽ đảm bảo đáp ứng đủ các điều kiện để cung cấp cho dự án này, riêng Đồng Nai sẽ cung cấp đất và đá” - Bộ trưởng Trần Hồng Minh khẳng định.