Trao “cần câu”, tạo sinh kế bền vững cho người dân

(BKTO) - Với mục tiêu giúp người dân có sinh kế để giảm nghèo bền vững, tỉnh Phú Thọ đã thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ người dân. Cùng với đó, địa phương cũng đặc biệt chú trọng đến công tác kiểm tra, giám sát, phối hợp với Kiểm toán nhà nước (KTNN) để đánh giá, đảm bảo các nguồn lực được sử dụng hiệu quả, đến đúng đối tượng thụ hưởng.

minh.jpg
Không chỉ được hỗ trợ kinh phí, người dân tỉnh Phú Thọ còn được hỗ trợ kỹ thuật để làm chủ đồng ruộng, từ đó tạo ra sinh kế bền vững để không tái nghèo. Ảnh: N.Lộc

Bà Nguyễn Thị Hồng Minh - Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Phú Thọ - đơn vị tham mưu cho Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Phú Thọ về triển khai chính sách giảm nghèo đã trao đổi với Báo Kiểm toán về vấn đề này.

Thưa bà, xin bà cho biết công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh đã được triển khai ra sao sau sáp nhập đến nay? 

Sau khi tỉnh Phú Thọ hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức mô hình chính quyền địa phương theo hướng 2 cấp, công tác chỉ đạo và điều hành Chương trình giảm nghèo đã có sự chuyển biến rõ nét. Việc tinh gọn bộ máy và thống nhất đầu mối quản lý giúp tăng cường hiệu lực điều hành, rút ngắn quy trình xử lý công việc và nâng cao hiệu quả thụ hưởng của người dân.

Theo kết quả rà soát sơ bộ năm 2025, toàn tỉnh có 27.273 hộ nghèo, chiếm 2,71% tổng số hộ dân - cơ bản đáp ứng chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Trên cơ sở tham mưu của Sở Nông nghiệp và Môi trường, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã ban hành hàng loạt văn bản quan trọng để kiện toàn bộ máy và định hướng triển khai, như: Quyết định số 809/QĐ-UBND về kiện toàn Ban Chỉ đạo; Kế hoạch số 4106/KH-UBND về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Kế hoạch số 4176/KH-UBND về rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Đồng thời, tỉnh đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác giảm nghèo; chỉ đạo UBND các xã, phường xây dựng kế hoạch rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025 và lập danh sách phục vụ kết nối dữ liệu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

chi-minh-2(1).jpg
Bà Nguyễn Thị Hồng Minh trao đổi với Báo Kiểm toán. Ảnh: N.Lộc

Việc phân cấp, phân quyền được thực hiện rõ ràng hơn, tạo điều kiện để chính quyền cơ sở chủ động lựa chọn dự án, tiểu dự án, mô hình hỗ trợ sản xuất, đào tạo nghề, đầu tư hạ tầng phù hợp với điều kiện địa phương.

Nhờ vậy, nhiều mô hình sinh kế được triển khai linh hoạt, kịp thời và phát huy hiệu quả rõ rệt. Công tác phối hợp giữa các cấp, ngành trong triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 tại địa phương được duy trì chặt chẽ, đảm bảo sử dụng nguồn lực hiệu quả, đúng trọng tâm.

Qua kiểm toán, KTNN đã chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong công tác triển khai chính sách giảm nghèo, đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Từ thực tiễn tại địa phương, bà có thể cho biết một số khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến việc triển khai Chương trình?

Trong quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, tỉnh Phú Thọ luôn nỗ lực huy động và phân bổ nguồn lực nhằm hỗ trợ các huyện, xã, thôn đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, qua hoạt động kiểm toán của KTNN và qua thực tiễn triển khai, có thể thấy một số bất cập cần được nhận diện và tập trung khắc phục.

Thứ nhất, hệ thống văn bản hướng dẫn từ Trung ương ban hành còn chậm, thiếu đồng bộ, có nội dung thay đổi hoặc chồng lấn, dẫn đến khó khăn cho địa phương trong việc nắm bắt và áp dụng thống nhất. Điều này khiến cán bộ cơ sở dễ lúng túng trong triển khai, đặc biệt với những nội dung mới hoặc phức tạp.

Thứ hai, việc phân công nhiệm vụ ở một số thời điểm chưa thật sự rõ ràng, dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót khâu, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn lực giảm nghèo.

Thứ ba, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp xã - lực lượng trực tiếp triển khai chương trình - còn hạn chế. Một số cán bộ thiếu kỹ năng tham mưu, lập kế hoạch, giám sát, gây ra sai sót trong thực hiện hoặc chậm trễ báo cáo kết quả.

Thứ tư, công tác phân bổ, giải ngân và quyết toán nguồn vốn còn chậm do vướng thủ tục thẩm định, phê duyệt; trong khi việc điều chỉnh kế hoạch theo thực tế phát sinh lại chưa linh hoạt. Điều này làm kéo dài thời gian thực hiện một số dự án, mô hình, giảm hiệu quả đầu tư.

Thứ năm, hoạt động theo dõi, kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa được thực hiện thường xuyên, sâu sát; cơ chế giám sát của cộng đồng chưa phát huy đầy đủ vai trò.

Trên cơ sở nhận diện những  bất cập này, tỉnh Phú Thọ đang rà soát, điều chỉnh định hướng và giải pháp thực hiện giảm nghèo theo hướng tập trung, trọng tâm, trọng điểm; tăng cường phân cấp gắn với trách nhiệm giải trình; nâng cao năng lực cán bộ; đẩy mạnh phối hợp liên ngành và đặc biệt chú trọng phát triển sinh kế bền vững.

Mục tiêu là giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đảm bảo tiến trình giảm nghèo bền vững và công bằng xã hội trên địa bàn.

Bà có thể cho biết cụ thể hơn về những nhiệm vụ, giải pháp để khắc phục bất cập, nâng cao hiệu quả triển khai Chương trình trong thời gian tới?

Để đảm bảo nguồn lực được sử dụng đúng mục tiêu, hiệu quả và công khai, từ góc độ đơn vị tham mưu, chúng tôi đã đề xuất lãnh đạo tỉnh tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:

gen-h-z7262019546879_1014e5241bf75711deb37b651d681e91.jpg
Công khai, minh bạch, tăng cường giám sát việc thực hiện các dự án, sử dụng nguồn vốn là một trong những giải pháp để nâng cao hiệu quả triển khai Chương trình mục tiêu về giảm nghèo. Ảnh: N.Lộc

Thứ nhất, xây dựng quy hoạch tổng thể và hoàn thiện cơ sở dữ liệu đầy đủ, đồng bộ về hạ tầng, mức độ nghèo và nhu cầu đầu tư theo địa bàn. Đây là cơ sở quan trọng để xác định đúng nơi cần đầu tư và tránh tình trạng trùng lặp hoặc đầu tư theo phong trào. Việc lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn phải được thực hiện chặt chẽ, thống nhất, bảo đảm không đầu tư hai lần vào một hạng mục.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân cấp rõ ràng giữa các sở, ngành và chính quyền địa phương; gắn trách nhiệm của từng đơn vị với kết quả giải ngân và hiệu quả đầu tư. Cách tiếp cận này giúp nâng cao tính chủ động của cơ sở, đồng thời bảo đảm trách nhiệm giải trình.

Thứ ba, công khai, minh bạch trong phân bổ và sử dụng vốn. Tỉnh chỉ đạo niêm yết công khai danh mục dự án, mức hỗ trợ, đối tượng thụ hưởng; đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin để theo dõi tiến độ giải ngân và cập nhật dữ liệu kịp thời, tạo thuận lợi cho người dân giám sát.

Thứ tư, tăng cường công tác giám sát, đánh giá, phát huy vai trò của HĐND, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và cộng đồng dân cư, đặc biệt phối hợp với KTNN để tăng cường kiểm toán, đánh giá kịp thời những bất cập cũng như những vấn đề nảy sinh. Đây là kênh quan trọng giúp bảo đảm nguồn vốn được sử dụng đúng mục tiêu, hạn chế thất thoát, tránh đầu tư chồng chéo.

Thứ năm, ưu tiên chất lượng hơn số lượng. Các nguồn vốn đầu tư công nên tập trung vào các công trình hạ tầng có tính kết nối, lan tỏa và thúc đẩy sinh kế lâu dài, qua đó sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả và hỗ trợ mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Trong đó, cần xây dựng thêm nhiều mô hình sinh kế, đào tạo nghề, phát triển sản xuất thật sự phù hợp điều kiện địa phương và có liên kết thị trường, từ đó nâng cao hiệu quả để nhân rộng. Đây chính là trao "cần câu" và hỗ trợ cách làm để người dân làm chủ được sản xuất, thay vì trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và giữ tâm lý ỷ lại, ngại thoát nghèo. Đồng thời, cần đảm bảo nguồn lực đầu tư để duy trì, phát triển các mô hình sản xuất tốt, từ đó mang lại kết quả bền vững của Chương trình.

Xin trân trọng cảm ơn bà!

Cùng chuyên mục
Trao “cần câu”, tạo sinh kế bền vững cho người dân