Các đại biểu Quốc hội bấm nút biểu quyết thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi). Ảnh: quochoi.vn |
Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) được Quốc hội thông qua gồm 157 Điều. Luật quy định về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh.
Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi).
Theo đó, về hợp đồng bảo hiểm, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, có ý kiến cho rằng hậu quả pháp lý của việc bên mua bảo hiểm hoặc DN bảo hiểm cố ý không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm là hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm tại khoản 2 và khoản 3 Điều 22 là chưa phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự. Đề nghị rà soát thống nhất, tránh xung đột pháp lý, vướng mắc khi giải quyết tranh chấp trách nhiệm giữa các bên.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, để tránh xung đột pháp luật, dự thảo Luật đã chỉnh sửa điểm g khoản 1 Điều 25 theo hướng hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong trường hợp giao kết do bị lừa dối đã loại trừ quy định tại Điều 22 về trách nhiệm và hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trên thực tế, số lượng hợp đồng bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khá nhiều. Do đó, việc xử lý hậu quả pháp lý của các hợp đồng bảo hiểm này theo hướng hợp đồng vô hiệu quy định tại Điều 127 của Bộ luật Dân sự là không khả thi vì phải được Tòa án tuyên vô hiệu. Việc này phức tạp và tạo gánh nặng chi phí cho cả DN bảo hiểm và bên mua bảo hiểm.
Do đó, dự thảo Luật quy định việc xử lý hậu quả pháp lý vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ cung cấp thông tin tại hợp đồng bảo hiểm theo hướng hủy bỏ hợp đồng tương tự như quy định tại Điều 423 của Bộ luật Dân sự.
Về DN bảo hiểm, DN tái bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài tại Việt Nam, Báo cáo giải trình nêu rõ, theo quy định của Luật DN, có 04 hình thức tổ chức DN. Tuy nhiên, các quy định pháp luật đối với hoạt động quản trị điều hành và công khai thông tin của công ty hợp danh và công ty tư nhân không có yêu cầu nghiêm ngặt như loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, do đó, hình thức công ty tư nhân và công ty hợp danh không phù hợp đối với các công ty yêu cầu quy mô lớn, các công ty có lợi ích công chúng như lĩnh vực bảo hiểm.
Theo kinh nghiệm quốc tế, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm không áp dụng 2 loại hình DN này; lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng cũng không cho phép 2 loại hình DN này. Vì vậy, Luật Kinh doanh bảo hiểm chỉ lựa chọn 02 hình thức tổ chức là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Quang cảnh phiên họp sáng 16/6. Ảnh: quochoi.vn |
Về đại lý bảo hiểm, DN môi giới bảo hiểm, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, dự thảo Luật đã mở theo hướng xã hội hóa việc đào tạo (chỉ quy định về nội dung đào tạo, không giới hạn về hình thức, tổ chức đào tạo) và trao quyền chủ động cho DN bảo hiểm, cơ sở đào tạo khác trong việc đào tạo kiến thức cơ bản và cập nhật kiến thức về sản phẩm bảo hiểm cho đại lý bảo hiểm.
Tuy nhiên, do kinh doanh bảo hiểm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, để bảo đảm chất lượng đầu ra của nguồn nhân lực, cần thiết phải có sự kiểm soát chặt chẽ việc tổ chức thi và cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm, chứng chỉ môi giới bảo hiểm tương tự như quy định đối với lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán.
Về bảo hiểm vi mô, dự thảo Luật đã quy định cho phép tổ chức tương hỗ triển khai bảo hiểm vi mô, với các điều kiện về tài chính, nhân sự, nghiệp vụ thấp hơn so với DN bảo hiểm để phù hợp với tính chất của bảo hiểm vi mô. Khoản 4 Điều 5 dự thảo Luật đã quy định về việc Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện đối với việc triển khai và tham gia các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp, ngư nghiệp và các sản phẩm bảo hiểm vì mục tiêu an sinh xã hội.
Đồng thời, bổ sung thêm điều quy định về các sản phẩm bảo hiểm có sự hỗ trợ của Nhà nước và giao Chính phủ quy định chi tiết các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ phù hợp với định hướng phát triển và điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ
Điều khoản chuyển tiếp của Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) quy định: Các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết trước ngày Luật này có hiệu lực và còn thời hạn hợp đồng thì tiếp tục thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng để phù hợp với Luật này.
Chứng chỉ đại lý bảo hiểm được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2025. Bộ Tài chính quy định chi tiết việc chuyển đổi chứng chỉ đại lý bảo hiểm được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực sang chứng chỉ đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này.
Chứng chỉ bảo hiểm, chứng chỉ môi giới bảo hiểm, chứng chỉ về phụ trợ bảo hiểm được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực được tiếp tục sử dụng. Kể từ ngày 01/01/2023, DN bảo hiểm, chi nhánh DN bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài dừng trích nộp Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm.
Việc xử lý số dư Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm quy định tại Điều 97 của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 61/2010/QH12 và Luật số 42/2019/QH14 được thực hiện như sau: Toàn bộ số dư của Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm được Bộ Tài chính quản lý để sử dụng cho mục đích bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong trường hợp DN bảo hiểm mất khả năng thanh toán hoặc phá sản; Chính phủ quy định chi tiết về quản lý và sử dụng số dư của Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm./.