Ảnh minh họa - Nguồn:molisa.gov.vn |
Với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam, Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) đã phối hợp với Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Vụ DTTS, Ủy ban Dân tộc công bố 2 báo cáo: “Số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019” và “Tóm tắt chính sách: Các vấn đề giới trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam”. Hoạt động được tổ chức nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế về DTTS ngày 09/8.
Kết quả phân tích số liệu tách biệt giới tính giai đoạn 2015-2019 trong Báo cáo cho thấy: Tỷ lệ tảo hôn của người DTTS đã giảm 4,7 điểm phần trăm. Tỷ lệ hộ gia đình DTTS có kết nối internet (Wi-Fi, cáp hoặc 3G) tăng 9,4 lần, từ 6,5% năm 2015 lên 61,3% năm 2019. Thu nhập bình quân một nhân khẩu/tháng của người DTTS năm 2018 đã tăng mạnh 1,8 lần so với năm 2014 và thu nhập trung bình hằng tháng của hộ gia đình DTTS có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam. Tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em DTTS tăng 15,2% trong giai đoạn 2015-2019. Tỷ lệ người DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5%, trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ...
Bên cạnh đó, Báo cáo cũng chỉ rõ một số vấn đề giới ảnh hưởng đến phụ nữ và trẻ em gái vẫn tiếp tục tồn tại trong vùng DTTS và miền núi. Tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống chung ở 53 DTTS tuy có giảm nhưng mức giảm chưa đồng đều và cá biệt vẫn tiếp tục tăng trong một số dân tộc. Báo cáo cũng cho thấy lao động nữ DTTS làm các công việc không ổn định, dễ bị tổn thương nhiều hơn so với lao động nam DTTS và lao động nữ người Kinh. Tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 10 - 49 tuổi sinh con tại cơ sở y tế đạt 86,4% nhưng vẫn thấp hơn đáng kể so với phụ nữ Kinh là trên 99%...
Ông Bùi Tôn Hiến - Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - cho biết: “Trong cộng đồng người DTTS, phụ nữ và trẻ em gái thường là những đối tượng thiệt thòi hơn về khả năng tiếp cận các cơ hội, các nguồn lực do các chuẩn mực xã hội áp đặt vị trí thấp kém hơn cho họ, giới hạn họ ở các hoạt động sinh con và sản xuất hộ gia đình. Sự đan xen của nhiều hình thức phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính và dân tộc có ảnh hưởng phổ biến nhất”.
Nhận định về ý nghĩa của kết quả nghiên cứu, ông Lưu Xuân Thủy - Vụ trưởng Vụ DTTS - cho rằng, những phân tích về bình đẳng giới ở vùng DTTS là thông tin nền tảng và hữu ích cho các bên liên quan trong thiết kế các chính sách và chương trình can thiệp để đảm bảo phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Bà Elisa Fernandez Saenz - Trưởng đại diện UN Women tại Việt Nam - cho biết, mục tiêu của báo cáo nhằm cung cấp cho các bên liên quan một bức tranh rõ nét hơn về thực trạng bình đẳng giới tại các vùng DTTS ở Việt Nam, vấn đề giới nào đang được Chính phủ giải quyết tốt và vấn đề nào cần tiếp tục nỗ lực can thiệp về cả chính sách và chương trình./.
THÀNH ĐỨC
Các nguồn số liệu, thông tin trong hai báo cáo được tính toán từ kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS ở Việt Nam do Tổng cục Thống kê phối hợp với Ủy ban Dân tộc thực hiện năm 2015 và năm 2019. Hai báo cáo tập trung vào 7 chủ đề chính: Dân số; cơ sở hạ tầng và tài sản; lao động, việc làm, thu nhập; giáo dục và đào tạo; văn hoá và xã hội; y tế, vệ sinh môi trường và cán bộ, công chức là người DTTS. |