Chiều 10/12, với đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng.

Kê khai, giải trình tài sản, thu nhập tăng thêm là tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ
Theo quy định của luật, tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm: quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng; kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và tài sản khác mà mỗi loại tài sản có giá trị từ 150 triệu đồng trở lên; tài sản, tài khoản ở nước ngoài; tổng thu nhập giữa 2 lần kê khai.
So với Luật hiện nay, giá trị kê khai đã tăng từ 50 triệu đồng lên 150 triệu đồng. Giá trị tài sản, thu nhập phải kê khai từ 150 triệu đồng áp dụng cho ba phương thức kê khai (lần đầu, hằng năm, phục vụ công tác cán bộ)
Luật cũng quy định tăng giá trị tài sản, thu nhập bổ sung biến động trong năm từ 300 triệu lên 1 tỷ đồng. Việc kê khai bổ sung phải hoàn thành trước ngày 31/12 của năm có biến động về tài sản, thu nhập.
Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo dõi biến động về tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thông qua phân tích, đánh giá thông tin từ bản kê khai hoặc từ các nguồn thông tin khác.
Trường hợp phát hiện có biến động tài sản, thu nhập trong năm từ 1 tỷ đồng trở lên mà người có nghĩa vụ kê khai không kê khai thì cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập yêu cầu người đó cung cấp, bổ sung thông tin có liên quan; trường hợp tài sản, thu nhập có biến động tăng thì phải giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm.
Chính phủ sẽ quy định chi tiết tiêu chí lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai được xác minh và việc xây dựng, phê duyệt, thực hiện kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm của Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập.
Theo Luật, việc kê khai, giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Tổng Thanh tra Chính phủ Đoàn Hồng Phong cho biết, với các ý kiến của đại biểu về: bộ tiêu chí đánh giá về công tác phòng, chống tham nhũng; các loại tài sản phải kê khai; quy trình xác minh tài sản, thu nhập… Chính phủ sẽ nghiên cứu, quy định cụ thể trong các nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật.
Bổ sung thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cơ quan kiểm tra của Đảng
Về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập, Luật đã bổ sung “Ủy ban Kiểm tra”, cũng như quy định thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của Văn phòng Quốc hội và Cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Cụ thể, Ủy ban kiểm tra cấp ủy cấp trên trực tiếp cơ sở trở lên kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập là đảng viên, người thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý và đảng viên chuyên trách công tác đảng hoặc có vị trí việc làm ở các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy theo quy định của Đảng.
Thanh tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai là người giữ chức vụ từ Phó Vụ trưởng và tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan, đơn vị, tổ chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu công tác tại tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ hoạt động.
Chủ tịch Hội đồng quản trị, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Phó Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, Trưởng Ban kiểm soát, Kế toán trưởng doanh nghiệp nhà nước, cũng do Thanh tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập.
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của mình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ và Ủy ban kiểm tra.
Văn phòng Quốc hội kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý của mình và của các cơ quan của Quốc hội, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Ủy ban kiểm tra.
Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý của mình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Ủy ban kiểm tra.
Cơ quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý của mình và của các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Ủy ban kiểm tra.
Thanh tra tỉnh, thành phố kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền địa phương, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Ủy ban kiểm tra.
Chính phủ quy định về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai không thuộc các trường hợp trên.
Giải trình, tiếp thu ý kiến về nội dung này trước khi thông qua, Tổng Thanh tra Chính phủ Đoàn Hồng Phong cho biết, quá trình triển khai thực hiện quy định tại khoản 8 Điều 30 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 gặp khó khăn, vướng mắc về phân định thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan của Đảng nên hơn 3 năm, kể từ khi Luật có hiệu lực chưa thực hiện được việc kiểm soát tài sản, thu nhập.
Vì vậy, để khắc phục tình trạng trên, quy định các cơ quan kiểm tra của Đảng kiểm soát tài sản, thu nhập như Dự thảo Luật là đúng quy định của Đảng và quy định pháp luật.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng có hiệu lực thi hành từ 01/7/2026.
