Cao Bằng vì mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội

(BKTO) - Sau khi thực hiện chính quyền 2 cấp, tỉnh Cao Bằng còn 56 xã, phường (53 xã và 03 phường) và 1.462 thôn, xóm. Ước 53 xã khu vực III, và 02 xã, phường thuộc khu vực II, 01 phường thuộc khu vực I vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có 1.047/1.462 thôn đặc biệt khó khăn.

cb4.jpg
Đời sống của bà con người dân tộc thiểu số của Cao Bằng còn nhiều khó khăn. Ảnh: PHÚC KHANG

Nhiều xã, phường, thôn còn đặc biệt khó khăn

Cao Bằng là tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới, thuộc phía Đông Bắc của Tổ quốc. Trước khi sắp xếp theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: 01 thành phố, 09 huyện và 161 xã, phường, thị trấn; trong đó: 33 xã, phường thuộc khu vực I (có 43 thôn đặc biệt khó khăn); 4 xã, phường, thị trấn thuộc khu vực II (có 15 thôn đặc biệt khó khăn); 124 xã thuộc khu vực III (có 938 thôn đặc biệt khó khăn); có 07 huyện với 40 xã, thị trấn biên giới; có 07 huyện nằm trong 74 huyện nghèo nhất cả nước.

Sau khi thực hiện chính quyền 2 cấp, tỉnh còn 56 xã, phường (53 xã và 03 phường) và 1.462 thôn, xóm. Ước 53 xã khu vực III, và 02 xã, phường thuộc khu vực II, 01 phường thuộc khu vực I vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có 1.047/1.462 thôn đặc biệt khó khăn.

Dân số bình quân toàn tỉnh có trên 547.000 người (tính đến đầu năm 2024), với 35 thành phần dân tộc, nhưng chủ yếu chỉ có 08 dân tộc cùng sinh sống lâu đời; trong đó: dân tộc Tày chiếm 40,97%; Nùng 31,08%; Mông 10,13%; Dao 10,08%; Kinh 5,76%; Sán Chỉ 1,39%; Lô Lô 0,47%; Hoa 0,03%; dân tộc khác 0,09%.

Chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới, tỉnh Cao Bằng xây dựng dự kiến kế hoạch và đặt mục tiêu phát triển toàn diện, bao trùm khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và nông thôn trên phạm vi cả nước. Thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, bình đẳng giới; nâng cao thu nhập, chất lượng sống và khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản cho người dân; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc thiểu số; thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền nhóm dân cư, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng khác.

cb3.jpg
Phát triển nghề truyền thống là sinh kế của nhiều bà con dân tộc thiểu số tỉnh Cao Bằng. Ảnh: PHÚC KHANG

Giảm tỷ lệ hộ nghèo, nâng số xã thoát nghèo

Mục tiêu cụ thể về thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số phấn đấu bằng 1/2 trở lên so với bình quân chung của cả nước. Giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 4% trở lên; 52 xã thoát nghèo. 21 xã đạt chuẩn nông thôn mới; 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới hiện đại. 100% Trạm y tế được xây dựng kiên cố.

100% tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường. 97% học sinh trong độ tuổi học trung học cơ sở đến trường. 60% học sinh trong độ tuổi học trung học phổ thông đến trường. 92% người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng Việt.

Về hạ tầng, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông. 100% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện
khác phù hợp, sử dụng điện lưới quốc gia. 91,5% Tỷ lệ phụ nữ đẻ được khám thai ít nhất 4 lần trong thai kỳ; đạt 91,5% tỷ lệ phụ nữ đẻ được nhân viên y tế đỡ.

100% đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình. 100% đồng bào dân tộc thiểu số được nghe đài phát thanh. 100% đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế. 100% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng. 96% đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.

Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hằng năm thu hút 3% lao động sang làm các ngành, nghề: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ.

Có 40% lao động người dân tộc thiểu số biết làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Phấn đấu có 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông - lâm nghiệp hàng hóa.

Xóa tình trạng nhà ở tạm, dốt nát; ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái; duy trì, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng. Trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân.

Giải quyết căn bản tình trạng di cư không theo kế hoạch trong đồng bào dân tộc thiểu số. Quy hoạch sắp xếp, di dời, bố trí 100% hộ dân tộc thiểu số đang cư trú phân tán, rải rác trong rừng đặc dụng, các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở.

cb5.jpg
Du khách ngoại quốc hào hứng với sản phẩm truyền thống của bà con vùng cao tỉnh Cao Bằng. Ảnh: PHÚC KHANG

Vì mục tiêu phát triển bền vững

Để phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra trong mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững đến năm 2030, tỉnh Cao Bằng dự kiến triển khai tập trung vào khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và bền vững, tập trung nguồn lực cho các xã, thôn, bản khó khăn nhất; giải quyết các vấn đề cấp bách nhất; ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo và các nhóm dân tộc thiểu số khó khăn nhất.

Phát huy vai trò chủ thể của người dân, đảm bảo công khai, dân chủ, phát huy quyền làm chủ và sự tham gia tích cực của cộng đồng. Khơi dậy tinh thần nỗ lực tự lực, tự cường vươn lên của đồng bào.

Đặc biệt, tỉnh sẽ chú trọng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, đẩy mạnh phân quyền cho địa phương, cơ sở trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình, phù hợp với điều kiện, đặc điểm, bản sắc văn hóa của từng vùng.

Thực hiện các nội dung của chương trình theo địa bàn, bảo đảm trên một địa bàn (cấp xã) chỉ phân bổ vốn từ một hợp phần duy nhất. Ưu tiên nguồn lực cho các xã nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Đảm bảo thực hiện toàn diện và bền vững các chính sách phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố hệ thống chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Tỉnh cũng mong muốn sẽ đa dạng hóa nguồn lực, trong đó nguồn lực nhà nước là quyết định, đồng thời tăng cường huy động, xã hội hóa các nguồn lực khác để đầu tư phát triển. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám sát, đánh giá và tổ chức thực hiện chương trình./.

Cùng chuyên mục
Cao Bằng vì mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội