Công tác thẩm định, phê duyệt, quản lý khoáng sản còn bất cập
Theo Chánh Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản Quốc gia Lại Hồng Thanh, từ khi Luật Khoáng sản năm 2010 có hiệu lực (01/7/2011) đến hết năm 2023, Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản Quốc gia và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh đã phê duyệt gần 3.000 báo cáo thăm dò khoáng sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu sử dụng trong nước và một phần xuất khẩu. Trong đó, một số địa phương có trữ lượng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đã phê duyệt lớn, như: Thanh Hoá trên 82 triệu m3 đất, cát san lấp, trên 600 triệu m3 đá làm vật liệu xây dựng thông thường; Nghệ An trên 80 triệu m3 đất, cát san lấp, trên 200 triệu m3 đá làm vật liệu xây dựng thông thường; Hà Nam trên 145 triệu m3 đá làm vật liệu xây dựng thông thường...
Công tác quản lý trữ lượng sau cấp phép đến khi đóng cửa mỏ khoáng sản, trữ lượng sau cấp phép khai thác cho tổ chức, cá nhân tiến hành khai thác cần được cập nhật, bổ sung hằng năm để theo dõi trữ lượng đã cấp phép, trữ lượng đã khai thác và trữ lượng còn lại đến thời điểm báo cáo để làm cơ sở thanh, quyết toán tài nguyên, đóng cửa mỏ khoáng sản.
Ông Lại Hồng Thanh - Chánh Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản Quốc gia
Tuy nhiên, sau 13 năm thực hiện Luật Khoáng sản năm 2010, đến nay, công tác thẩm định, phê duyệt trữ lượng khoáng sản cũng như quản lý trữ lượng khoáng sản trong quá trình khai thác vẫn còn những bất cập, hạn chế. Đơn cử trong khu vực hoạt động khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) có khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (đất, đá thải mỏ); hay trong khu vực hoạt động khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường thuộc thẩm quyền cấp phép của địa phương cũng có khoáng sản đi kèm thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ TNMT. “Vấn đề đặt ra là trong trường hợp đó, thủ tục để tổ chức, cá nhân được thăm dò/khai thác các loại khoáng sản như thế nào? Việc chuyển thẩm quyền phê duyệt/công nhận trữ lượng ra sao để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tránh thủ tục hành chính rườm rà, gây lãng phí khi điều chỉnh giấy phép?” - ông Thanh băn khoăn.
Hay quy định phân cấp trữ lượng khoáng sản đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, ông Thanh nêu rõ, đến nay, Bộ TNMT đã ban hành các thông tư quy định về thăm dò, phân cấp trữ lượng đối với các loại khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ. Tuy nhiên, chẳng hạn than bùn lại thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh. “Vì lý do đó, khi phân cấp trữ lượng đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, trong quá trình thẩm định, phê duyệt, các địa phương còn lúng túng khi gặp các loại khoáng sản đi kèm, khoáng sản khác thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ TNMT, như đá khối, đá nguyên liệu xi măng, vôi công nghiệp” - ông Thanh dẫn chứng.
Trao đổi về phân cấp và tính trữ lượng tài nguyên khoáng sản rắn ở Việt Nam, PGS.TS. Nguyễn Phương - Hội Địa chất Kinh tế Việt Nam - cho biết, thực tế, công tác thăm dò, phân cấp trữ lượng và tính trữ lượng được dựa trên cơ sở chỉ tiêu công nghiệp tạm thời do chủ đầu tư đề xuất và được Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản Quốc gia công nhận. Tuy vậy, ông Phương cho rằng, chỉ tiêu tính trữ lượng còn mang nặng tính chủ quan của chủ đầu tư và đơn vị tư vấn lập báo cáo; trong nhiều trường hợp chưa có sức thuyết phục về cơ sở khoa học và tài liệu thực tế minh chứng do thiếu nhiều tài liệu đầu vào khi luận giải chỉ tiêu công nghiệp.
Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản gồm: 12 chương và 117 điều, tăng 1 chương và 31 điều so với Luật Khoáng sản năm 2010. Dự kiến, Quốc hội sẽ cho ý kiến đối với hồ sơ dự án Luật Địa chất và Khoáng sản tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2024) và xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024).
Phải đánh giá chính xác trữ lượng khoáng sản
Để tháo gỡ những vướng mắc nêu trên, PGS,TS. Nguyễn Phương đề xuất tiến hành đánh giá sai số cho các khối tính trữ lượng, xác định kích thước đới ảnh hưởng... Đối với dự án đầu tư khai thác mỏ, chúng ta cần xem xét khía cạnh đặc thù so với các dự án phát triển kinh tế - xã hội khác, đặc biệt độ tin cậy của trữ lượng tính toán được trong lòng đất, nhằm bảo đảm tính minh bạch và công bằng cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia trong lĩnh vực hoạt động khai thác khoáng sản.
Đại diện Cục Khoáng sản Việt Nam kiến nghị nghiên cứu quy định chỉ đấu giá quyền khai thác khoáng sản tại các khu vực mỏ đã có tài liệu kết quả thăm dò, bởi tài nguyên khoáng sản rất khó xác định nếu không thông qua kết quả thăm dò để đánh giá sơ bộ về trữ lượng, phẩm cấp, hiệu quả kinh tế. Việc quy định đấu giá khi chưa có tài liệu thăm dò dễ gây sai phạm trong việc xác định các điều kiện để đấu giá (trữ lượng, bước giá, giá khởi điểm…). Với các mỏ khoáng sản khác, luật cần quy định về mặt bằng sạch trước khi tổ chức đấu giá.
Đồng quan điểm, đại diện Sở TNMT tỉnh Lào Cai cũng đề nghị cơ quan xây dựng luật xem xét bỏ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản đối với vật liệu xây dựng thông thường; bỏ quy định về đấu giá tại các mỏ chưa có tài liệu thăm dò. Đồng thời, tỉnh Lào Cai cũng đề nghị ban hành các văn bản quản lý phù hợp với đặc thù của loại hình khai thác cát, sỏi lòng sông (về thăm dò, đánh giá trữ lượng, thiết kế khai thác, thả phao, mốc giới khu vực khai thác, đóng cửa mỏ…); hướng dẫn cụ thể về công tác kiểm soát sản lượng, thống kê, kiểm kê trữ lượng, đánh giá sự bồi lắng đối với cát, sỏi; quy định đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với việc đóng cửa mỏ cát, sỏi (nạo vét, khơi thông dòng chảy, thu dọn bến bãi).
Ngoài ra, Phó GS,TS. Trần Quang Hiếu - Trường Đại học Mỏ - Địa chất - nhấn mạnh, cần có quy định cụ thể về công tác cập nhật khối lượng mỏ bằng các công nghệ địa không gian hiện đại, chính xác; quy định về việc bổ sung các thông tin trong quá trình khai thác nhằm đảm bảo công tác quản lý trữ lượng và chất lượng khoáng sản khai thác hằng năm của mỏ. Cùng với đó, tăng cường quản lý việc đánh giá chính xác trữ lượng địa chất và trữ lượng khai thác dựa trên thông tin chính xác về biên giới mỏ lộ thiên, hầm lò với các loại khoáng sản cụ thể; tăng cường chuyển đổi số và ứng dụng các phần mềm chuyên dụng trong việc quản lý trữ lượng và khai thác của mỏ, đặc biệt đối với các mỏ có quy mô lớn./.