Chế biến tôm xuất khẩu tôm của Công ty TNHH Thông Thuận-Chi nhánh Ninh Thuận. (Ảnh: Công Thử/TTXVN)
“Dù bối cảnh kinh tế thế giới và đại dịch COVID-19 còn nhiều bất định song những thành tựu và kinh nghiệm quan trọng trong năm 2020 đã giúp Việt Nam bước vào năm 2021 với nhiều lạc quan.”
Nội dung trên được ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu Tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nêu ra tại Hội thảo “Kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng 2021: Cải cách, hội nhập và phát triển bền vững” do CIEM và Chương trình Australia-Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) phối hợp tổ chức.
Tăng trưởng kinh tế có thể đạt tới 6,46%
Theo ông Dương, Việt Nam duy trì được kinh tế vĩ mô ổn định và nằm trong nhóm các nước châu Á phục hồi sớm trong bối cảnh COVID-19. Thêm vào đó dư địa điều hành chính sách kinh tế vĩ mô vẫn được giữ gìn và củng cố. Điều này giúp tăng trưởng kinh tế có đà phục hồi đồng thời những yếu tố trên giúp cho niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư có sự chuyển biến tích cực.
Về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2021, nhóm nghiên cứu của CIEM đưa ra hai kịch bản được dựa trên các đánh giá của các cơ quan tổ chức về triển vọng kinh tế thế giới, tiến triển của nền kinh tế Việt Nam cũng như khả năng sử dụng một số công cụ chính sách kinh tế trong nước.
Cụ thể, kịch bản thứ nhất đặt ra bối cảnh GDP của thế giới đạt tăng trưởng 4%/năm và chỉ số giá của Mỹ tăng 1,924%; giá hàng nông sản xuất khẩu tăng khoảng 12,6%, giá dầu thô thế giới tăng 11,4%. Trong nước, tỷ giá VNĐ/USD của ngân hàng thương mại giảm 0,5%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 13% và dư nợ tín dụng tăng 12%... Bên cạnh đó, vốn thực hiện của khu vực FDI (bao gồm cả phía nước ngoài và phía Việt Nam) tăng 2% so với năm 2020 và giải ngân đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước ở mức 420.000 tỷ đồng.
Kịch bản thứ hai giữ nguyên hầu hết các giả thiết như trong kịch bản một đồng thời có điều chỉnh về giá hàng nông sản xuất khẩu tăng 15%, giá dầu thô thế giới tăng 20%, tổng phương tiện thanh toán tăng 14%, tín dụng tăng 13%, vốn thực hiện của khu vực FDI tăng 5% và giải ngân đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước ở mức 477.300 tỷ đồng.
“Theo đó, dự báo cho trưởng kinh tế năm 2021 có thể đạt mức 5,98% theo kịch bản một và 6,46% trong kịch bản hai. Theo hai kịch bản lần lượt xuất khẩu cả năm dự báo tăng 4,23% và tăng 5,06%. Thặng dư thương mại dự báo tương ứng ở các mức 5,49 tỷ USD và 7,24 tỷ USD đồng thời lạm phát bình quân năm lần lượt đạt 3,51% và 3,78%,” ông Dương cho biết.
Ngoài ra, báo cáo của CIEM có chỉ ra một số tác động đến diễn biến kinh tế Việt Nam trong năm 2021, như kinh tế thế giới còn bất định, rủi ro. Thêm vào đó dịch COVID-19 và các biến thể diễn biến phức tạp, khó lường luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát kéo theo việc nhiều nền kinh tế sẽ tung ra các gói hỗ trợ quy mô lớn trong khi thiếu điều phối ở cấp độ toàn cầu. Điều này có thể gây ra những rủi ro không nhỏ đối với thị trường tài chính thế giới và tình trạng nợ toàn cầu.
Ngoài ra, Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số tiếp tục chuyển biến nhanh, ảnh hưởng đến sự phát triển của cả doanh nghiệp và thị trường nội địa. Do đó, khả năng duy trì các cải cách thực chất đối với môi trường đầu tư-kinh doanh của Chính phủ sẽ ảnh hưởng đến tâm lý, quyết định mở rộng đầu tư của nhiều doanh nghiệp nước ngoài.
Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Doosung Tech Viet Nam, Khu công nghiệp Lương Sơn, Hòa Bình. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Bên cạnh những yếu tố nêu trên, ông Dương đánh giá lạc quan nhu cầu tiêu dùng trong nước có thể sẽ gia tăng nhanh hơn, do vậy các doanh nghiệp có thể tập trung hơn đến khai thác thị trường trong nước. Song, ông Dương có khuyến cáo mặc dù Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) được kỳ vọng có nhiều tác động tích cực, nhưng Việt Nam cũng có thể phải đối mặt với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại, điều tra chống lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ…Cần tập trung cải cách nền tảng kinh tế vi mô
Dựa trên kết quả dự báo, nhóm phân tích của CIEM nhấn mạnh bộ máy điều hành mới của Chính phủ sẽ sớm được thiết lập, đưa Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội gắn với cải cách trong giai đoạn 2021-2025.
Trong bối cảnh ấy, bên cạnh việc xử lý các vấn đề ngắn hạn ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế, Việt Nam cần khẩn trương tiến hành các cải cách sâu rộng hơn về nền tảng kinh tế vi mô, hệ thống pháp lý nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động sản xuất-kinh doanh.
“Từ góc độ ấy, đại dịch COVID-19 là một lời ‘cảnh tỉnh’ quan trọng để Việt Nam lưu tâm hơn tới các cải cách đủ chất lượng cho phát triển bền vững,” ông Dương nói.
Trong các năm tiếp theo, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn diễn ra sâu rộng. Việt Nam đã thực hiện các hiệp định thương mại quan trọng như CPTPP, EVFTA và sẽ cần nhiều nỗ lực để nghiên cứu định hướng cũng như thời điểm phê chuẩn RCEP. Và, việc thúc đẩy vai trò của ASEAN trong bối cảnh mới, gắn với các sáng kiến mang tính cạnh tranh giữa các siêu cường ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và dịch chuyển dòng vốn FDI, đây là một yêu cầu quan trọng và không dễ dàng.
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)
Do đó, CIEM kiến nghị các cấp quản lý và điều hành chính sách nhìn nhận quá trình hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đi kèm với việc cải thiện cơ hội tiếp cận thị trường và nguồn lực mà còn phải chủ động thực hiện các cam kết sâu rộng hơn về tự do hóa thương mại và đầu tư (kể cả sau đường biên giới), hướng tới một luật chơi chung có chất lượng, nhất quán và thân thiện với doanh nghiệp sẽ là động lực quan trọng để thúc đẩy các cải cách nền tảng kinh tế thị trường ở Việt Nam.Trên thực tế, cộng đồng doanh nghiệp và người dân có thể tin vào tiềm năng của Việt Nam trong quá trình hội nhập, song các tiềm năng ấy chỉ trở thành triển vọng và hiện thực hóa trong một môi trường chính sách phù hợp. Do vậy, môi trường chính sách phải gắn với những thay đổi rõ ràng, nhất quán, phù hợp với các cam kết quốc tế và mục tiêu phát triển của Việt Nam đồng thời thể hiện sự thân thiện, khích lệ và nuôi dưỡng sự sáng tạo và phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.
“Báo cáo của CIEM nhấn mạnh thông điệp: Cần tiếp tục tập trung vào cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn với sáng tạo và môi trường, gắn với xử lý hiệu quả những rủi ro, đặc biệt gắn với COVID-19 trong bối cảnh ‘bình thường mới.’ Các nỗ lực này không tách rời, mà là một phần tiên quyết ngay trong kế hoạch phục hồi kinh tế của Việt Nam,” ông Dương nói./.
(Nguồn: CIEM)
Theo vietnamplus.vn