
Tổng vốn cho Chương trình khoảng 423.000 tỷ đồng
Nghị quyết của Quốc hội, nêu rõ, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là phấn đấu tăng thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2030 gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020; phấn đấu tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số bằng 1/2 bình quân chung của cả nước.
Phấn đấu tỷ lệ nghèo đa chiều của cả nước duy trì mức giảm từ 1 đến 1,5%/năm; phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi xuống dưới 10%. Phấn đấu vùng dân tộc thiểu số và miền núi cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn. Phấn đấu cả nước có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, có khoảng 10% số xã đạt chuẩn nông thôn được công nhận xã đạt nông thôn hiện đại; phấn đấu có 5 tỉnh, thành phố được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Đến năm 2035, phấn đấu thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng ít nhất 1,6 lần so với năm 2030; phấn đấu thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số bằng 1/2 bình quân chung của cả nước. Tỷ lệ nghèo đa chiều của cả nước duy trì mức giảm từ 1 đến 1,5%/năm theo chuẩn nghèo giai đoạn 2031-2035. Phấn đấu giảm ít nhất 50% số lượng xã, thôn khó khăn trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; phấn đấu có 5 tỉnh, thành phố vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không còn xã, thôn khó khăn. Phấn đấu cả nước có khoảng 85% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong 3 đó, có khoảng 30% số xã đạt chuẩn nông thôn mới được công nhận xã đạt nông thôn mới hiện đại; phấn đấu có ít nhất 10 tỉnh, thành phố được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, trong đó, phấn đấu có 5 tỉnh, thành phố đạt nông thôn mới hiện đại.
Chương trình thực hiện trên phạm vi cả nước, ưu tiên xã, thôn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng an toàn khu, vùng biên giới và hải đảo.
Đối tượng thụ hưởng là các xã, thôn, người dân, cộng đồng dân cư, hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp và các tổ chức khác có liên quan trên địa bàn cả nước, trong đó ưu tiên hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng an toàn khu, vùng biên giới và hải đảo. Thời gian thực hiện từ năm 2026 đến hết năm 2035.
Tổng nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho Chương trình giai đoạn 2026-2030 là khoảng 423.000 tỷ đồng.
Kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân vốn năm 2025 đến hết năm 2026
Theo Nghị quyết, Quốc hội quyết định phân bổ chi ngân sách Trung ương; Thủ tướng Chính phủ giao dự toán, kế hoạch cho các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương theo tổng vốn Chương trình (chi tiết chi đầu tư và chi thường xuyên).

HĐND cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp cho HĐNĐ cấp xã quyết định phân bổ chi tiết đến nội dung, hoạt động, lĩnh vực chi, danh mục dự án đầu tư công của Chương trình theo định mức phân bổ chi ngân sách nhà nước do HĐND cấp tỉnh quyết định.
Bộ, cơ quan Trung ương, UBND các cấp và các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước các cấp quyết định điều chỉnh kinh phí, vốn (bao gồm các khoản chi được giao dự toán hằng năm và các khoản chi được chuyển nguồn từ năm trước sang theo quy định) từ các nội dung, hoạt động đã hết nhiệm vụ chi để thực hiện các nội dung, hoạt động khác thuộc Chương trình đảm bảo không vượt quá tổng mức, không làm thay đổi cơ cấu chi đầu tư, chi thường xuyên đã được cấp có thẩm quyền giao.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước năm 2025 (bao gồm cả vốn của năm 2021, năm 2022, năm 2023, năm 2024 đã được chuyển nguồn sang năm 2025) của 3 chương trình mục tiêu quốc gia: Xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa giải ngân được trong năm 2025, được cấp có thẩm quyền cho phép kéo dài thời gian thực hiện, giải ngân đến hết ngày 31/12/2026, Bộ, cơ quan Trung ương, UBND các cấp và các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước các cấp được quyết định điều chỉnh kinh phí, vốn từ các nội dung, hoạt động đã hết nhiệm vụ chi để thực hiện các nội dung, hoạt động khác bảo đảm không vượt quá tổng mức, không làm thay đổi cơ cấu chi đầu tư, chi thường xuyên của từng chương trình mục tiêu quốc gia đã được cấp có thẩm quyền giao.
Trường hợp không còn nhiệm vụ dở dang thuộc nội dung, hoạt động của từng chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 nêu trên, được sử dụng kinh phí, vốn còn lại để thực hiện các nội dung, nhiệm vụ, dự án đầu tư thuộc Chương trình giai đoạn 2026-2030.
