Thưa ông, Dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) được đánh giá là dự án đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến việc xây dựng, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật. Xin ông cho biết chủ trương, quan điểm về việc xây dựng Dự án Luật này?
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV và kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp, chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ về việc đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc”, trong đó đề ra nhiệm vụ cần khẩn trương sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Theo đó, 7 nội dung cần được thể chế hóa trong quá trình xây dựng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) là: bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật; đổi mới mạnh mẽ tư duy xây dựng pháp luật; tiếp tục đơn giản hóa hệ thống pháp luật, phân định rõ thẩm quyền lập pháp và lập quy; đổi mới mạnh mẽ việc xây dựng Chương trình lập pháp của Quốc hội theo hướng vừa có chiến lược, định hướng dài hạn, vừa có chương trình hằng năm linh hoạt, bám sát thực tiễn cuộc sống;
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm dân chủ, chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả, minh bạch, dễ tiếp cận, dễ áp dụng trên thực tế, tiết kiệm thời gian, chi phí, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Dự thảo Luật được bố cục gồm 08 chương, 72 điều (giảm 09 chương, 101 điều so với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015), trong đó có sự đổi mới rất căn bản, có những nội dung mang tính chất đột phá trong quy trình làm luật.
Cùng với đó, tiếp tục phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc chủ động, tích cực tham gia xây dựng pháp luật; hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; phát triển nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong xây dựng pháp luật.
Với tinh thần đó, Bộ Tư pháp đã tập trung tối đa mọi nguồn lực để nghiên cứu, xây dựng hồ sơ Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi).
Thực tiễn cho thấy, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay có “độ trễ” nhất định, dẫn đến nhiều vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa có pháp luật điều chỉnh. Vấn đề này được khắc phục như thế nào trong Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), thưa ông?
Để khắc phục vấn đề “độ trễ” của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, Dự thảo Luật đã đưa ra 02 nhóm giải pháp.
Một là, đổi mới căn bản quy trình lập chương trình xây dựng pháp luật để bảo đảm sự linh hoạt, kịp thời phản ứng chính sách. Cụ thể: tách quy trình xây dựng chính sách ra khỏi chương trình lập pháp hằng năm để giao cho Chính phủ hoặc cơ quan trình chịu trách nhiệm nghiên cứu, thông qua chính sách làm cơ sở cho việc quy phạm hóa văn bản luật trước khi trình Quốc hội. Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) quyết định chương trình lập pháp hằng năm theo nguyên tắc chỉ đưa vào chương trình những dự án được Chính phủ hoặc cơ quan trình xây dựng bảo đảm chất lượng;
Hai là, về quy trình thông qua văn bản luật, Dự thảo Luật quy định quy trình thông qua các đạo luật trong 01 kỳ họp; đồng thời quy định rõ việc đơn giản hóa quy trình, thủ tục rút gọn và bổ sung quy trình thông qua văn bản trong trường hợp đặc biệt đối với các dự án, dự thảo văn bản xử lý các tình huống khẩn cấp và quan trọng quốc gia sau khi có ý kiến của Bộ Chính trị, để kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Công tác tổ chức thi hành pháp luật cũng bị đánh giá là “khâu yếu”, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Xin ông cho biết, vấn đề này được xử lý như thế nào khi xây dựng Dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi)?
Dự thảo Luật đã quy định một chương hoàn toàn mới, đó là chương “Tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật”, trong đó quy định gắn kết chặt chẽ giữa công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật; xây dựng cơ chế thường xuyên đánh giá hiệu quả thực thi của văn bản quy phạm pháp luật sau ban hành để kịp thời nhận diện, xử lý hiệu quả những mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật; đồng thời, quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, người có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thi hành và báo cáo hoặc cung cấp thông tin về tổ chức thi hành theo quy định của pháp luật.
Dự thảo Luật cũng kế thừa và sửa đổi, bổ sung một số nội dung về giám sát, kiểm tra, xử lý, hợp nhất, pháp điển, rà soát, hệ thống hóa, cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; bổ sung quy định về hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Mục đích của việc hướng dẫn là bảo đảm các cơ quan, tổ chức hiểu đúng và thống nhất quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Các cơ quan, tổ chức có thể căn cứ vào nội dung hướng dẫn để quyết định việc áp dụng pháp luật cho từng trường hợp cụ thể và chịu trách nhiệm đối với việc áp dụng pháp luật của mình. Tôi cho rằng, với các quy định về hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật như Dự thảo Luật sẽ giúp xử lý nhanh các vấn đề thực tiễn và không tốn kém chi phí, nhân lực để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật.
Theo Dự thảo Luật, cơ quan trình dự án luật chịu trách nhiệm đến cùng đối với dự án luật do mình trình. Xin ông có thể nói rõ hơn về quy định này?
Thể chế hóa chủ trương đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, Dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) quy định cơ quan trình chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan thẩm tra và các cơ quan có liên quan trong việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của UBTVQH, Quốc hội để chỉnh lý dự thảo luật. Quy định này nhằm phân định rõ vai trò, nhiệm vụ cũng như tăng cường cơ chế phối hợp giữa của cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và UBTVQH trong quá trình trình, thẩm tra, cho ý kiến, chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật.
Theo đó, cơ quan trình chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan thẩm tra nghiên cứu, tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luật theo ý kiến của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan soạn thảo văn bản phải chịu trách nhiệm về chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội là cơ quan thẩm tra (thẩm tra dự án luật khi được trình sang Quốc hội và cho ý kiến đối với báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo của cơ quan trình). UBTVQH cho ý kiến dự án luật trước khi trình ra Quốc hội và cho ý kiến đối với Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo.
Đối với những vấn đề quan trọng, vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau thì Quốc hội tiến hành biểu quyết theo đề nghị của cơ quan trình hoặc đề nghị của UBTVQH để làm cơ sở cho việc chỉnh lý.
Quy định tại Dự thảo Luật nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ thông qua việc xác định trách nhiệm xuyên suốt quá trình xây dựng dự án luật của cơ quan soạn thảo từ khâu nghiên cứu chính sách đến đề xuất, soạn thảo, trình và chỉnh lý dự thảo; đồng thời, bảo đảm sự gắn kết với khâu tổ chức thực hiện văn bản sau khi được Quốc hội thông qua. Tôi cho rằng, đây là vấn đề hết sức mới và cũng là giải pháp căn bản, quan trọng để nâng cao chất lượng thể chế trong thời gian tới.
Trân trọng cảm ơn ông!