Không gian biển chưa phát huy được vị thế “cửa ngõ” vươn ra thế giới
Việt Nam là quốc gia ven Biển Đông với 28/63 tỉnh, thành phố ven biển, chiếm 42% diện tích đất liền và 45% tổng dân số. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT), khai thác, sử dụng tài nguyên biển đã đóng góp hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững của đất nước. Giai đoạn 2011-2022, GDP trung bình của 28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm khoảng 50% GDP cả nước; thu nhập bình quân/người của các địa phương ven biển đạt khoảng 97 triệu đồng năm 2022, cao hơn bình quân cả nước. Kinh tế đảo đã có sự chuyển biến căn bản, góp phần hình thành tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, các đảo, quần đảo của Việt Nam.
Thời gian qua, công tác xây dựng chính sách pháp luật về biển đã dần hoàn thiện. Bộ TNMT đã tham mưu Chính phủ xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Bộ TNMT đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05/3/2020 về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành: Quyết định số 203/QĐ-TTg ngày 06/02/2020 thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam (được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 1280/QĐ-TTg ngày 02/11/2023); Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 24/11/2021 về đổi mới và tăng cường thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mới đây, Bộ TNMT đã trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 03/4/2023 phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045…
Cùng với đó, triển khai Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, Bộ TNMT đã chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành 2 nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 2 quyết định và ban hành theo thẩm quyền 10 thông tư hướng dẫn, quy định chi tiết tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển bền vững kinh tế biển vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức.
Trước hết, không gian biển chưa được khai thác, sử dụng tổng hợp hiệu quả; chưa phát huy được vị thế, tiềm năng là “cửa ngõ” vươn ra thế giới để đẩy mạnh phát triển kinh tế. Một số cơ chế, chính sách, pháp luật được xây dựng và ban hành còn chậm ảnh hưởng đến công tác quản lý khai thác, sử dụng và bảo vệ biển. Quy mô kinh tế biển còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế địa kinh tế; cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý; mới tận dụng, khai thác hiệu quả được một phần vùng biển quốc gia, chưa có đủ điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế.
Bên cạnh đó, liên kết vùng giữa các vùng biển, ven biển, vùng nội địa, địa phương có biển với địa phương không có biển và giữa các ngành, lĩnh vực còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả. Một số ngành kinh tế biển mũi nhọn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, một số ngành thiếu sức cạnh tranh, đóng góp cho nền kinh tế còn thấp. Kết cấu hạ tầng vùng biển, ven biển chưa được xây dựng đồng bộ và hiện đại…
Thực hiện đồng bộ các giải pháp
Nghị quyết số 36-NQ/TW nêu rõ: “Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp 10% GDP cả nước; kinh tế 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo chuẩn mực quốc tế, kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển”.
Để đạt mục tiêu này, đặc biệt là việc đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, Bộ trưởng Bộ TNMT Đặng Quốc Khánh cho biết, thời gian tới, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp:
Thứ nhất, chú trọng xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh và thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, Nghị quyết số 26/NQ-CP, Nghị quyết số 48/NQ-CP trong các chính sách, pháp luật để hình thành cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo; phát triển bền vững kinh tế biển.
Thứ hai, tập trung tổng kết, đánh giá sửa đổi Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và pháp luật liên quan; hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý, khai thác, sử dụng biển.
Thứ ba, tiếp thu, hoàn thiện và trình Quốc hội phê duyệt Quy hoạch không gian biển quốc gia; xây dựng các kế hoạch thực hiện quy hoạch bảo đảm kịp thời hiệu quả ngay sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Rà soát, điều chỉnh các quy hoạch ngành quốc gia, các quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh phù hợp với Quy hoạch không gian biển quốc gia.
Thứ tư, đổi mới quản trị biển theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả; đảm bảo hài hoà lợi ích giữa địa phương có biển và địa phương không có biển, giữa khai thác và sử dụng với bảo tồn biển, giữa các bên liên quan với xây dựng quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Thứ năm, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và tổ chức điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế biển gắn chặt với bảo đảm quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại và hợp tác quốc tế. Tăng cường ứng dụng công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý (GIS) và công nghệ hiện đại khác trong quản lý, khai thác tài nguyên biển.
Thứ sáu, khuyến khích và huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển các ngành kinh tế biển./.