
Cần có cơ chế hậu kiểm đủ mạnh, minh bạch và hiệu quả
Thảo luận tại hội trường, đa số ĐBQH nhất trí với nhiều nội dung trong dự thảo Nghị quyết, đặc biệt là cách tiếp cận cởi mở, thực tiễn, đặt trọng tâm vào việc tháo gỡ rào cản và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (DN), hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Dự thảo nghị quyết quy định hoạt động thanh, kiểm tra tại DN tư nhân được chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Cụ thể, việc thanh, kiểm tra tại DN hộ kinh doanh không quá một lần trong năm (trừ trường hợp có bằng chứng vi phạm rõ ràng); hành vi lạm dụng thanh, kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho DN sẽ bị xử nghiêm. Quy định này thể hiện bình đẳng giữa DN Nhà nước và DN tư nhân, trừ trường hợp vi phạm phải thanh tra theo yêu cầu, vụ việc bắt buộc.
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương) nhất trí với chủ trương chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đặc biệt trong quản lý điều kiện kinh doanh. “Đây là hướng đi phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần giảm chi phí tuân thủ cho DN, khuyến khích khởi nghiệp, sáng tạo và mở rộng sản xuất” - đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga nhấn mạnh.

Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga cũng cho rằng, nếu không có cơ chế hậu kiểm đủ mạnh, minh bạch và hiệu quả thì chính sách này rất dễ trở thành kẽ hở để các “công ty ma” lợi dụng. Thực tế đã cho thấy, nhiều đối tượng đã lợi dụng chính sách thông thoáng để lập ra hàng trăm công ty không hoạt động thực tế, mua bán hóa đơn, trốn thuế, rửa tiền, gây thất thu ngân sách và làm méo mó môi trường cạnh tranh. “Có vụ việc cơ quan chức năng đã phát hiện tới hơn 600 DN “ma” xuất trên 1 triệu hóa đơn khống, với giá trị giao dịch lên tới gần 64.000 tỷ đồng” - đại biểu dẫn chứng.
.jpg)
Do đó, để triển khai Nghị quyết, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đề nghị Chính phủ cần bổ sung rõ các yêu cầu cụ thể đối với hệ thống hậu kiểm, như: Liên thông dữ liệu giữa các cơ quan thuế, hải quan, ngân hàng; kiểm tra thực địa; ứng dụng công nghệ số trong giám sát; chế tài đủ sức răn đe. Đồng thời, cần quy định rõ các ngành, lĩnh vực buộc phải tiền kiểm, trên cơ sở rủi ro và kinh nghiệm quốc tế, để tránh áp dụng tràn lan hoặc lỏng lẻo.
Về vấn đề bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, không áp dụng quy định hồi tố đối với DN trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà Dự thảo Nghị quyết nêu, đại biểu Tạ Văn Hạ (Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam) cho rằng, quy định này đã được Hiến pháp quy định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh. Đại biểu cho rằng đây không phải là cơ chế đặc biệt để cho DN, do đó cần cân nhắc không bổ sung nội dung này trong Dự thảo.
Tạo thuận lợi trong tiếp cận việc thuê đất, mặt bằng sản xuất
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của KTTN, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển KTTN. Nhưng trên thực tế cho thấy khu vực KTTN còn gặp nhiều rào cản, bất cập cần được tháo gỡ để phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Về hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh tại khoản 2 Điều 7 quy định: “Chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ được hỗ trợ đầu tư theo quy định tại khoản 1 Điều này phải dành một phần diện tích đất đã đầu tư hạ tầng để cho DN công nghệ cao thuộc khu vực KTTN, DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp sáng tạo thuê, thuê lại”.
Theo đại biểu Mai Văn Hải (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa), đề nghị cần rà soát lại quy định này để đảm bảo chặt chẽ và cũng phải khuyến khích được nhà đầu tư vào hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ. Việc hỗ trợ đầu tư hạ tầng một số địa phương đã có cơ chế thu hút đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhưng việc thu hút nhà đầu tư thứ cấp ở một số khu công nghiệp, cụm công nghiệp cũng gặp không ít khó khăn, thu hút chậm. “Việc quy định phải dành riêng một phần diện tích đất đã đầu tư hạ tầng để cho DN công nghệ cao thuộc khu vực KTTN, DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp sáng tạo thuê, thuê lại, là sẽ gặp khó khăn” - đại biểu nói.
Hơn nữa quy định một phần diện tích là bao nhiêu cũng là rất khó khăn để đáp ứng được nhu cầu của DN thuộc khu vực KTTN. Nếu để lại một phần diện tích mà không có DN thuê lại, để lãng phí đất sau đầu tư hạ tầng thì ai chịu trách nhiệm cho vấn đề này, như thế sẽ khó khăn cho việc thu hút các nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Vì vậy, đại biểu Mai Văn Hải đề nghị nên quy định một số tỉnh, thành phố có quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, ưu tiên cho các DN công nghệ cao thuộc khu vực KTTN, DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp sáng tạo thuê đất.
.jpg)
Quan tâm đến các chính sách hỗ trợ, đại biểu Trần Thị Vân (Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh) cho biết, dự thảo Nghị quyết quy định 4 nhóm đối tượng được miễn, giảm thuế quy định tại Điều 10. So với các chính sách khuyến khích khác, như: Ưu đãi tín dụng, tiếp cận đất đai, đào tạo nhân lực, cải cách thủ tục hành chính thì hỗ trợ miễn, giảm thuế có tác động nhanh, không phải qua nhiều thủ tục, giúp các DN khởi nghiệp, DN nhỏ và vừa vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu, nâng cao khả năng cạnh tranh.
.jpg)
Để chính sách này có hiệu quả khi triển khai thực hiện, đại biểu Trần Thị Vân đề nghị nâng thời hạn miễn thuế thu nhập DN lên 5 năm, sau đó tiếp tục giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo thay vì miễn thuế 2 năm và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo như khoản 1 Điều 10 dự thảo Nghị quyết.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn ĐBQH TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, khu vực KTTN chiếm 51% GDP, đóng góp 33% tổng thu ngân sách nhà nước, nên cần nhiều cơ chế đặc biệt hỗ trợ để phát huy vai trò là động lực quan trọng nhất vào năm 2030.
Dự thảo Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030 có 2 triệu DN, đại biểu Trần Hoàng Ngân cho rằng để đạt mục tiêu này phải có giải pháp đặc biệt. Hiện nay, mỗi năm cả nước chỉ tăng khoảng 30.000-40.000 DN nên để sau 5 năm nữa đạt con số 2 triệu DN thì phải có chính sách hỗ trợ các hộ kinh doanh cá thể để trở thành DN. Cùng với đó, cần bổ sung nội dung những địa phương có đất đai, có tiềm năng, thế mạnh thì tạo cơ chế thành lập khu công nghiệp để DN tư nhân, DN vừa và nhỏ thuê với chính sách hỗ trợ.
Phát biểu kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh đề nghị, cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra phối hợp với các cơ quan nghiên cứu tiếp thu, giải trình thấu đáo, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội để trình Quốc hội xem xét, thông qua./.