
Chìa khóa sinh kế bền vững
Theo Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Thanh Hóa, trong 9 tháng năm 2025, đã giải ngân hơn 14 nghìn lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, với tổng số tiền 4.325 tỷ đồng; doanh số thu nợ đạt 3.233 tỷ đồng. Tổng dư nợ đến 30/9/2025 đạt trên 15.900 tỷ đồng, với hơn 243 nghìn hộ nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ, tăng 1.091 tỷ đồng so với đầu năm, tương ứng tỷ lệ tăng trưởng 7,3%. Những con số này phản ánh hiệu quả thiết thực của chính sách tín dụng ưu đãi, góp phần nâng cao đời sống và tạo cơ hội phát triển bền vững cho hàng trăm nghìn hộ dân trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện Chỉ thị 22-CT/TU của Tỉnh ủy về việc xóa nhà tạm, nhà dột nát giai đoạn 2024-2025, vốn vay chính sách đóng vai trò then chốt. Dự kiến đến cuối năm 2025, tỉnh sẽ hoàn thành việc hỗ trợ xây mới và sửa chữa cho hơn 15.000 hộ nghèo, cận nghèo và các đối tượng chính sách khác có khó khăn về nhà ở.
Các hộ dân thuộc diện được hỗ trợ sẽ được tiếp cận vốn vay ưu đãi với mức vay lên tới 50 triệu đồng/hộ (theo quy định hiện hành đối với chương trình nhà ở), giúp người dân có đủ nguồn lực tài chính để xây dựng nhà ở kiên cố, an toàn trước mùa mưa bão.
Trong năm 2025, nguồn vốn ưu đãi không chỉ là hỗ trợ tài chính mà còn là công cụ tạo sinh kế hiệu quả, giúp các hộ dân tự lực vươn lên thoát nghèo. Theo đó, trong năm 2025, chương trình cho vay giải quyết việc làm (GQVVL) của tỉnh đã hỗ trợ tạo việc làm cho khoảng 15.000 lao động, bao gồm cả lao động trong nước và xuất khẩu lao động nước ngoài.
Kênh vay vốn cho xuất khẩu lao động tiếp tục được phát huy, với mục tiêu hỗ trợ cho trên 2.000 lao động được vay vốn để đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Nguồn thu nhập từ xuất khẩu lao động ước tính trung bình 25-45 triệu đồng/tháng/người, là yếu tố quyết định giúp các hộ dân miền núi, vùng khó khăn thoát nghèo nhanh chóng và bền vững chỉ trong 1-2 năm.
Đặc biệt, năm 2025, tỉnh tiếp tục tập trung hỗ trợ vốn cho hộ mới thoát nghèo (được vay vốn trong vòng 5 năm kể từ khi thoát nghèo), nhằm củng cố và mở rộng sản xuất, ngăn chặn nguy cơ tái nghèo. Khoảng 10.000 hộ mới thoát nghèo dự kiến sẽ được hưởng lợi từ chính sách này trong năm.
Đối với các vùng đặc thù, dư nợ cho vay tại 37 xã nghèo và các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi dự kiến chiếm tỷ trọng lớn, với trên 60% tổng dư nợ cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Điều này đảm bảo nguồn vốn tập trung vào các vùng khó khăn nhất, phù hợp với mục tiêu của Chương trình MTQG.
Từ hỗ trợ sang hợp tác, từ giảm nghèo sang làm giàu
Thanh Hóa đặt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều mới xuống mức dưới 1% vào cuối năm 2025 và vùng dân tộc thiểu số giảm 3%. Để đạt được điều này, vốn vay được sử dụng để giải quyết dứt điểm các thiếu hụt về thu nhập và an sinh xã hội. Với hơn 9.000 tổ tiết kiệm và vay vốn đang hoạt động hiệu quả, công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được tăng cường, đảm bảo vốn vay đến tay 100% đối tượng thụ hưởng có nhu cầu.
Bên cạnh đó, tỉnh sẽ tăng cường huy động đa dạng nguồn lực từ doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức tín dụng và các chương trình quốc tế. Việc giám sát chính sách được xác định là nhiệm vụ then chốt, nhằm đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng, phòng ngừa lợi dụng chính sách và hạn chế tái nghèo. Mục tiêu quan trọng nhất không chỉ là giảm tỷ lệ hộ nghèo mà là nâng cao chất lượng cuộc sống, thu nhập và chỉ số hạnh phúc của người dân.
Hiện nay, tỉnh đã xây dựng đề án giai đoạn 2026 - 2030 với định hướng mới: từ hỗ trợ sang hợp tác, từ xóa đói sang làm giàu, lấy giảm nghèo đa chiều và phát triển bền vững làm trung tâm. Trọng tâm bao gồm: đầu tư hạ tầng gắn với chuyển đổi số nông thôn; phát triển nông nghiệp sinh thái, sản phẩm OCOP, chuỗi giá trị xanh; tăng cường đào tạo nghề theo nhu cầu doanh nghiệp; mở rộng dịch vụ tài chính - ngân hàng tới vùng sâu, vùng xa; hỗ trợ người nghèo tiếp cận bảo hiểm y tế, giáo dục nghề và kỹ năng số.
Tỉnh Thanh Hóa xác định công tác giảm nghèo giai đoạn mới phải gắn liền với chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ. Các mô hình nông nghiệp thông minh, thương mại điện tử nông thôn, truy xuất nguồn gốc nông sản, thanh toán không dùng tiền mặt… sẽ được khuyến khích mở rộng, góp phần giúp người dân nâng cao năng suất, giảm chi phí và tăng khả năng kết nối thị trường.
