Cần hoàn thiện hành lang pháp lý để thu hút nguồn lực
GS.TS Lê Anh Tuấn - Chủ tịch Hội đồng Đại học Bách khoa Hà Nội - cho biết, theo số liệu năm 2021, tại Việt Nam việc tiêu thụ năng lượng trong ngành GTVT đứng thứ 2 (16,5%), chỉ xếp sau công nghiệp (51,4%). Hơn 95% nhu cầu năng lượng của ngành GTVT phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch; nguồn phát thải khí nhà kính của ngành GTVT chiếm gần 24% tổng lượng khí nhà kính. Trong đó, giao thông đường bộ chiếm tỷ trọng phát thải khí nhà kính lớn nhất, chiếm tới hơn 80%, vì vậy cần kiểm soát phát thải, đặc biệt đối với giao thông đường bộ.
Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, có 3 kịch bản để thực hiện mục tiêu đưa phát thải ròng khí nhà kính của ngành GTVT về 0 vào năm 2050, gồm kịch bản BAU (phát triển GTVT theo hướng phát thải thông thường); kịch bản quốc gia tự thực hiện (kịch bản NLTN - giảm phát thải bằng nguồn lực trong nước) và kịch bản hướng tới phát thải ròng bằng 0 (kịch bản PTR0 - có sự hỗ trợ của quốc tế). Chi phí đầu tư giai đoạn 2025 - 2050 cho kịch bản NLTN khoảng 1.176,17 tỷ USD. Kịch bản PTR0 có chi phí 1.225,37 tỷ USD, cao hơn NLTN nhưng cơ bản sẽ hướng tới được mục tiêu phát thải về 0 vào năm 2050.
Ông Vũ Đức Công - Quản lý cơ sở hạ tầng và Cố vấn chính sách cấp cao, Đại sứ quán Australia - nêu vấn đề: Câu hỏi đặt ra là nguồn lực ở đâu để Việt Nam đạt được tham vọng giảm phát thải về 0 vào năm 2050, làm thế nào để huy động nguồn lực và cách thức triển khai như thế nào. Ông Công khuyến nghị, để thực hiện được điều này, cần có ba yếu tố. Thứ nhất, Việt Nam phải có cam kết lớn từ Đảng, Nhà nước, Bộ, ban ngành và các doanh nghiệp. Tiếp đó phải có lộ trình cụ thể để triển khai và huy động nguồn lực. Cuối cùng, phải có khung pháp lý để các nhà đầu tư trong và ngoài nước an tâm đầu tư. Ông Công cũng cho biết thêm, Chính phủ Australia đang có nguồn tài trợ khoảng 2 tỷ USD thông qua chiến lược phát triển tại Đông Nam Á. Liệu Việt Nam có đủ niềm tin và có các đề xuất dự án tuyệt vời để tiếp cận nguồn tài trợ này cho ngành giao thông hay không. Hơn nữa, nếu tốc độ chậm hơn “đối phương”, Việt Nam cũng sẽ mất cơ hội bởi nếu chậm hơn, nguồn vốn đầu tư sẽ chạy sang các nước khác.
Ông Lưu Quang Thìn - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ GTVT - đề xuất các giải pháp trọng tâm để huy động nguồn lực đầu tư. Theo đó, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý; rà soát, cải cách thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng, môi trường đầu tư; xây dựng cơ chế để tăng cường phân cấp, phân quyền cho các địa phương đầu tư, tiếp tục rà soát các quy hoạch để định hướng đầu tư, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông gắn với mục tiêu chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon. Ưu tiên phân bổ vốn ngân sách ngân sách cho các công trình, dự án kết cấu hạ tầng giao thông không có khả năng thu hồi vốn hoặc khó có khả năng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế; ưu tiên các dự án phát triển kết cấu hạ tầng để thực hiện các cam kết về mục tiêu giảm phát thải carbon (như các tuyến đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị). Huy động mọi nguồn vốn từ các thành phần kinh tế; tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi…
Ông Thái Hồ Phương - Giám đốc Trung tâm Quản lý giao thông công cộng thành phố Hà Nội, Sở GTVT Hà Nội - cho biết, Thành phố đã đặt mục tiêu và lộ trình chuyển đổi đạt 100% xe buýt dùng điện, năng lượng xanh vào năm 2035. Khi thực hiện chuyển đổi, doanh nghiệp đối mặt với những thách thức lớn như: cần nguồn kinh phí lớn để đầu tư phương tiện, hạ tầng, chuyển đổi công nghệ, đào tạo nhân sự... Các doanh nghiệp mong muốn tiếp cận các nguồn vốn với cơ chế cho vay và lãi vay hấp dẫn, an toàn với sự bảo trợ của Chính phủ, Thành phố. Các Bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu, xây dựng, ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quy định các loại hình trạm sạc; bố trí mạng lưới điện đủ đáp ứng nhu cầu trạm sạc; hướng dẫn cụ thể về giá bán điện của trạm sạc…
GS.TS Lê Anh Tuấn cho rằng, để thực hiện các kịch bản nói trên, cần tăng cường phối hợp liên ngành; rà soát cơ chế huy động nguồn lực và phân bổ vốn đầu tư; phát triển khoa học công nghệ, kịp thời đáp ứng chuyển đổi xanh trong lĩnh vực GTVT; đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với chuyển đổi năng lượng xanh trong GTVT; quan hệ hợp tác quốc tế; cơ chế giám sát thực hiện; cũng như truyền thông nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng.
Khai thông và “tiêu hóa” nguồn lực
Bà Kathleen Whimp - Quyền Giám đốc World Bank tại Việt Nam - Lào – Campuchia - khẳng định sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện chuyển đổi năng lượng xanh và phương tiện xanh không chỉ về tài chính mà còn hỗ trợ các sáng kiến kỹ thuật. Để thực hiện mục tiêu chuyển đổi giao thông xanh, Việt Nam cần giải quyết các thách thức như: thúc đẩy phê duyệt các dự án, xây dựng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với quốc tế, chuẩn bị ngân sách dài hạn cho các dự án, nâng cao năng lực thể chế và hoàn thiện khung pháp lý.
Ông Kanzo Nakai - Giám đốc giao thông Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) - cho biết ADB đang có định hướng hợp tác liên quan đến tài chính và thể chế. ADB sẽ hỗ trợ các dự án xe buýt điện, cho Chính phủ vay đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật, chính sách. Trong đó, ADB sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng khung chính sách, lộ trình chuyển đổi, ưu đãi để từ đó nghiên cứu khả thi, thiết kế kế hoạch hoạt động và kinh doanh…
Nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông cho rằng, việc huy động nguồn lực để đưa phát thải ròng khí nhà kính về Netzero trong ngành GTVT như cam kết là thách thức rất lớn. Vốn nhà nước cho đầu tư phát triển hạ tầng là một nguồn lực rất lớn đóng vai trò vốn mồi, ngoài ra, cần huy động nguồn lực quốc tế. Điều đáng mừng là một số đối tác quốc tế đã cam kết, sẵn sàng hỗ trợ nhưng chúng ta phải tiếp cận, sử dụng vốn hiệu quả. Theo đó, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, có cơ chế hấp dẫn, thu hút nguồn lực đầu tư và điều quan trọng phải thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Nói cách khác, khi nguồn lực đã được khai thông thì việc tổ chức thực hiện để "tiêu hoá" nguồn vốn rất quan trọng nhằm đạt mục tiêu chung, hướng tới Netzero vào năm 2050./.