
Thưa ông, trước hết, xin ông có thể làm rõ hơn về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN theo Hiến pháp, Luật KTNN và theo thông lệ quốc tế?
Địa vị pháp lý của KTNN đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Khoản 1, Điều 118 Hiến pháp quy định: “Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”. Quy định này đã nâng tầm KTNN từ cơ quan luật định thành cơ quan hiến định, nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trở thành nguyên tắc hiến định, nâng cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của KTNN trong kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Đồng thời, việc quy định về KTNN trong Hiến pháp cũng phù hợp với chuẩn mực, nguyên tắc kiểm toán được ghi nhận trong các văn kiện của Tổ chức quốc tế Các cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI) và thông lệ quốc tế.
Nghiên cứu kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, quy định về thiết chế KTNN trong Hiến pháp giữa các nước có sự khác nhau nhất định về mức độ nội dung quy định và kỹ thuật lập hiến, song nguyên tắc độc lập và tối cao trong kiểm toán của cơ quan KTNN vẫn là nội dung hiến định phổ biến nhất. So với khuyến cáo của INTOSAI và thông lệ tốt của các nước trên thế giới, địa vị pháp lý của KTNN ở nước ta mới đáp ứng yêu cầu “độc lập” và chưa đáp ứng yêu cầu về tính “tối cao”, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trong thời gian tới.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã thông qua Luật KTNN và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Cùng với Luật KTNN, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công, Luật Đầu tư công… được ban hành trong thời gian qua cũng đã quy định nhiều nội dung liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KTNN trong hệ thống các cơ quan kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước.
Từ chức năng, nhiệm vụ của KTNN đã được quy định như trên, ông có thể nói rõ hơn sự khác biệt về chức năng, nhiệm vụ của KTNN với các cơ quan thanh tra, kiểm tra khác thể hiện ở những điểm nào?
Theo các quy định hiện hành, thanh tra nhà nước (TTNN) là một thiết chế kiểm tra, kiểm soát được thiết kế bên trong hệ thống hành pháp, là cơ quan trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp về tổ chức và hoạt động nhưng có tính độc lập tương đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Chính từ sự khác biệt về địa vị pháp lý nêu trên đã dẫn đến sự khác biệt về hoạt động của KTNN với TTNN, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Một là, về chức năng: KTNN có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công (Điều 9 Luật KTNN năm 2015).
Trong khi đó, chức năng của cơ quan thanh tra là giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiến hành thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật (Điều 5 Luật Thanh tra năm 2022).
Hai là, về đối tượng: Đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự thanh tra được xác định trong quyết định thanh tra. Còn đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán.
Ba là, về tính độc lập: Tuy hoạt động TTNN và KTNN đều phải tuân thủ nguyên tắc trung thực, khách quan, công khai; song, điểm khác biệt lớn nhất trong nguyên tắc hoạt động của KTNN với TTNN chính là nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Điều này cho thấy hoạt động KTNN có tính độc lập cao.
Bốn là, về mục đích hoạt động: Điểm khác biệt lớn nhất về mục đích hoạt động giữa TTNN và KTNN là mục đích chính của hoạt động TTNN là nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Còn mục đích chính của hoạt động KTNN là nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính công, tài sản công.
Năm là, về tính chất hoạt động: Hoạt động thanh tra nhà nước là hoạt động “nội kiểm” (trong hệ thống hành pháp); kết quả thanh tra, kiểm tra để giúp Chính phủ làm căn cứ đưa ra các quyết định quản lý. Hoạt động KTNN là hoạt động “ngoại kiểm”; kết quả hoạt động kiểm toán nhằm giải tỏa trách nhiệm cho Chính phủ và tạo cơ sở về niềm tin với bên thứ ba như: Quốc hội, công chúng và xã hội...
Tại Kỳ họp thứ 4 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật Thanh tra (sửa đổi), trong đó có sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm toán. Theo ông, việc bổ sung quy định này có khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động của hai cơ quan trong thực tiễn?
Ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18/NQ-TW về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó đặt ra yêu cầu: “Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi hoạt động, mối quan hệ công tác của Kiểm toán nhà nước và các cơ quan kiểm tra, thanh tra các cấp để không chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ”.
Thể chế quan điểm nêu trên của Đảng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN đã bổ sung một điều mới quy định về cơ quan thanh tra và KTNN như sau: “Điều 64a. Cơ quan thanh tra và Kiểm toán nhà nước
1. Khi xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm, Kiểm toán nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ để xử lý trùng lặp, chồng chéo.
2. Cơ quan thanh tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Kiểm toán nhà nước xử lý trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm toán.
3. Khi tiến hành hoạt động kiểm toán, thanh tra, nếu phát hiện trùng lặp, chồng chéo, Kiểm toán nhà nước chủ trì, phối hợp với cơ quan thanh tra để xử lý”.
Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với Luật KTNN, Luật Thanh tra (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua đã quy định tại khoản 1 Điều 55 về xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra: “Khi tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm toán nhà nước, nếu phát hiện chồng chéo, trùng lặp, cơ quan thanh tra phối hợp với cơ quan Kiểm toán nhà nước để xử lý theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và Luật này, bảo đảm một nội dung hoạt động của tổ chức, cá nhân chỉ là đối tượng của một cơ quan thanh tra hoặc cơ quan Kiểm toán nhà nước”.
Các quy định nêu trên là cơ sở pháp lý để khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán trong thực tế.
Xin trân trọng cảm ơn ông!./.