
Tổng mức vốn được xác định phù hợp với quy mô, mục tiêu Chương trình
KTNN đã nhận được Công văn của Bộ Y tế về việc cho ý kiến đối với hồ sơ trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư CTMTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026- 2035.
Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ tài liệu, căn cứ pháp lý, KTNN đánh giá, về cơ bản, Chương trình đáp ứng các tiêu chí xác định chương trình đầu tư công căn cứ theo Luật Đầu tư công và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Chương trình phù hợp với nguyên tắc đầu tư công hướng đến các nhiệm vụ mang tính chất liên ngành, phạm vi rộng, tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế xã hội, đồng thời giải quyết các vấn đề then chốt, cấp bách mà từng dự án riêng lẻ không thể đáp ứng. Chương trình có tính tổng hợp, liên kết giữa các lĩnh vực y tế, dân số và an sinh xã hội, đảm bảo yêu cầu đầu tư tập trung, khắc phục tồn tại của giai đoạn trước và tạo nền tảng phát triển bền vững trong dài hạn.
Chương trình cũng phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030), Chiến lược quốc gia về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đến năm 2030, Nghị quyết số 20-NQ/TW về công tác y tế, Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số và Nghị quyết số 72-NQ/TW về tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đồng thời, Chương trình tương thích với quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế, quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch vùng theo Luật Quy hoạch; phù hợp với các chỉ tiêu về an sinh xã hội, chăm sóc người yếu thế và nâng cao chất lượng dân số đã được Quốc hội, Chính phủ đặt ra.
“Các nhóm nhiệm vụ của Chương trình đồng bộ với mục tiêu duy trì mức sinh thay thế, kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, thích ứng già hóa dân số, cùng cố y tế cơ sở và dự phòng, bảo đảm an ninh y tế và nâng cao khả năng chống chịu trước các tình huống khẩn cấp” - KTNN nêu rõ.
Liên quan đến nguồn vốn, tổng mức đầu tư của Chương trình, theo đề xuất của Chính phủ tổng mức đầu tư giai đoạn 2026-2035 là 125.478 tỷ đồng, gồm 88.635 tỷ đồng giai đoạn 2026-2030 và 36.843 tỷ đồng giai đoạn 2031-2035. Nguồn vốn bao gồm: ngân sách trung ương chiếm tỷ trọng chủ yếu, ngân sách địa phương đối ứng, và nguồn huy động hợp pháp khác. Cơ cấu đầu tư công và thường xuyên được phân định rõ ràng.
Theo đánh giá của KTNN, nguồn vốn phù hợp quy định của Luật Đầu tư công, Luật NSNN và các định mức phân bổ vốn trung hạn. Tổng mức vốn được xác định phù hợp với quy mô, mục tiêu Chương trình và tương quan với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Cơ cấu nguồn vốn được thiết kế tương đối hợp lý, bảo đảm đầu tư đồng bộ từ cơ sở vật chất, trang thiết bị đến vận hành, duy trì dịch vụ.
Xây dựng lộ trình và cơ chế tài chính rõ ràng cho y tế dự phòng
Góp ý hoàn thiện Chương trình, KTNN nêu rõ, báo cáo của Bộ Y tế đã ghi nhận vai trò quan trọng của nhân viên y tế thôn bản và cô đỡ thôn bản là cánh tay nối dài của Trạm y tế xã trong mạng lưới y tế cơ sở.
Tuy nhiên, hoạt động của đội ngũ này không ổn định do không còn được hưởng phụ cấp hằng tháng từ ngân sách nhà nước theo quy định tại Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023 mà chỉ hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia công việc.
Theo KTNN, điều này chưa phù hợp với mục tiêu theo Chỉ thị số 25- CT/TW ngày 25/10/2023 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của y tế cơ sở trong tình hình mới. Do đó, KTNN đề nghị, bên cạnh giải pháp hỗ trợ phụ cấp hằng tháng, Chương trình cần xem xét bổ sung giải pháp cụ thể về pháp lý và tài chính đặc thù nhằm ổn định và hỗ trợ lâu dài nhân lực y tế thôn bản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Bên cạnh đó, về cơ chế tài chính cho y tế dự phòng tuyến cơ sở, Báo cáo đã nhấn mạnh phương châm chủ yếu của ngành y tế lấy phòng bệnh hơn chữa bệnh và coi y tế dự phòng là then chốt.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy sự mất cân đối lớn về tài chính, khi tỷ trọng chi từ nguồn Bảo hiểm y tế (BHYT) cho Trạm y tế xã chỉ chiếm 2% tổng chi BHYT, dù hơn 70% người có thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh sử dụng dịch vụ ở tuyến huyện (cũ), xã.
Ngoài ra, BHYT hiện mới chỉ chi trả cho các dịch vụ khám, chữa bệnh, trong khi các dịch vụ mang tính dự phòng (như tư vấn, quản lý sức khỏe, sàng lọc bệnh) chưa được chi trả.
Vì vậy, để giải quyết triệt để tình trạng kém hiệu quả và quá tải tuyến trên do vượt tuyến không cần thiết, KTNN đề nghị Chương trình cần xem xét xây dựng một lộ trình và cơ chế tài chính rõ ràng về việc đầu tư cơ sở vật chất; xây dựng và điều chỉnh định mức kỹ thuật và giá cho gói dịch vụ y tế cơ bản, bao gồm cả sàng lọc bệnh và các dịch vụ dự phòng thiết yếu được BHYT chi trả để đảm bảo tính bền vững cho y tế dự phòng ở tuyến cơ sở.
Liên quan đến cơ chế quản lý và phân bổ vốn, Báo cáo của Bộ Y tế đề xuất áp dụng cơ chế chính sách đặc thù theo hướng Trung ương chỉ phân bổ tổng mức dự toán cho cấp tỉnh, địa phương quyết định phân bổ chi tiết.
Theo KTNN, cơ chế đặc thù này là cần thiết, tuy nhiên, khi quyền phân bổ chi tiết được giao hoàn toàn cho địa phương, Chương trình cần làm rõ cách thức Bộ Y tế và Bộ Tài chính đảm bảo sự kiểm soát về chất lượng và định hướng chiến lược của các hoạt động, đặc biệt đối với các địa phương có năng lực quản lý còn yếu hoặc việc nâng cao chất lượng y tế chưa phải là nhiệm vụ trọng tâm.
Đồng thời, cơ chế phân cấp này cần đi kèm với chế độ kiểm tra, giám sát thường xuyên, chặt chẽ để tránh lãng phí nguồn vốn đầu tư công - KTNN đề nghị.
Theo chương trình Kỳ họp thứ 10, ngày mai (11/12), Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư CTMTQG về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035./.
