
Thiết lập mô hình quản lý rõ ràng
Chiều 06/5, phát biểu thảo luận tại Tổ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, các đại biểu Quốc hội thống nhất cao với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật cũng như các mục đích, quan điểm chỉ đạo sửa đổi Luật nêu tại Tờ trình của Chính phủ.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật không chỉ nhằm khắc phục các bất cập đã được tổng kết qua thực tiễn thi hành, mà còn hướng tới việc xây dựng một khung pháp lý tiên tiến, linh hoạt, đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng và nâng cao vị thế hàng hóa Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật, liên quan đến quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa, đại biểu Nguyễn Như So (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh) đề nghị, cần rà soát, điều chỉnh quy định này theo hướng tăng tính minh bạch, phân định rõ ràng trách nhiệm quản lý nhà nước của từng Bộ, ngành theo lĩnh vực được phân công tránh chồng chéo, buông lỏng quản lý hoặc bỏ trống trách nhiệm.
Đồng thời, cần thiết lập rõ vai trò chủ trì và cơ chế phối hợp liên ngành một cách hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Theo đại biểu, thực tế, vụ việc gần 600 nhãn hiệu sữa giả được sản xuất và lưu hành công khai trong suốt 4 năm qua đã cho thấy sự buông lỏng và thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát chất lượng hàng hoá. “Đây không chỉ là vụ việc cá biệt mà còn là dấu hiệu cho thấy những lỗ hổng mang tính hệ thống trong thiết kế chính sách và tổ chức thực thi” - đại biểu nói.
Đại biểu Nguyễn Như So chỉ rõ, cơ chế hậu kiểm vốn là định hướng đúng đắn phù hợp với thông lệ quốc tế và chủ trương cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, nâng cao tỉnh chủ động trách nhiệm của doanh nghiệp. Thế nhưng, khi thiếu năng lực hậu kiểm, thiếu cơ chế phối hợp, thiếu sự liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước thì cơ chế này trở thành kẽ hở để lợi dụng, né tránh trách nhiệm pháp lý và kiểm soát chất lượng.

Khi hậu quả xảy ra việc quy trách nhiệm trở nên mơ hồ vì tất cả đều liên quan nhưng không ai là đầu mối chịu trách nhiệm cuối cùng, dẫn đến tình trạng đùn đẩy, đá bóng trách nhiệm. Nhấn mạnh điều này, đại biểu Nguyễn Như So cho rằng, việc sửa đổi Luật cần giải quyết tận gốc vấn đề này bằng cách thiết lập mô hình quản lý rõ ràng; trong đó quy định cụ thể cơ quan chủ trì, cơ chế phối hợp liên ngành, trách nhiệm hậu kiểm gắn với chế tài thực thi đủ mạnh. Chỉ khi xây dựng được cơ chế quản lý đồng bộ, rõ ràng và có tính ràng buộc cao thì chất lượng sản phẩm, hàng hoá mới thực sự được kiểm soát và quyền lợi người tiêu dùng mới được bảo đảm.
Minh bạch về phương thức hỗ trợ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
Đại biểu Nguyễn Như So cũng nhấn mạnh, việc bổ sung quy định hỗ trợ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hoá cho doanh nghiệp Việt Nam tại khoản 4 Điều 1 Dự thảo là điểm mới đáng ghi nhận, thể hiện bước tiến rõ rệt trong tư duy chính sách từ vai trò quản lý đơn thuần sang đồng hành, kiến tạo nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt.
Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, quy định này còn chung chung, thiên về định tính chưa làm rõ nội dung hỗ trợ cụ thể như: phương thức tiếp cận công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, các tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp được hưởng chính sách, cơ chế ưu đãi tài chính, thuế, tín dụng.... Điều này có thể nguy cơ dẫn tới sự lúng túng trong tổ chức thực hiện, phân tán nguồn lực, suy giảm hiệu quả chính sách ngay từ khâu triển khai.
Do đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần quy định rõ ràng hơn về nội dung, phạm vi và phương thức hỗ trợ theo hướng minh bạch, khả thi có trọng tâm, trọng điểm ưu tiên doanh nghiệp có tiềm năng đổi mới sáng tạo và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đồng thời, cần ban hành các hướng dẫn chi tiết về quy trình tiếp nhận, xét duyệt và tổ chức thực hiện, đi kèm với cơ chế điều phối liên ngành chặt chẽ giữa các Bộ, ngành có liên quan, đặc biệt là Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, để bảo đảm tính liên thông, thống nhất và hiệu quả trong thực thi chính sách.
“Việc hỗ trợ nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá cho doanh nghiệp không chỉ là hỗ trợ kỹ thuật, mà phải là một phần không tách rời trong chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, có khả năng cạnh tranh toàn cầu” – đại biểu nói.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Như So cũng đề nghị cần nghiên cứu, xem xét bãi bỏ thủ tục công bố hợp quy, thay vào đó là áp dụng mô hình: doanh nghiệp công bố quy chuẩn áp dụng cho sản phẩm và cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát theo quản lý rủi ro.
Trước đó, trình bày Tờ trình Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tại Phiên họp sáng 06/5, Phó Thủ tướng Lê Thành Long cho biết, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá phân công trách nhiệm quản lý nhà nước cho 08 Bộ quản lý ngành, lĩnh vực trong xuất nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng, nhưng việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng trong sản xuất và bổ sung trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng cho các bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác lại được quy định tại Nghị định 132/2008/NĐ-CP, Nghị định 74/2018/NĐ-CP, Nghị định 154/2018/NĐ-CP, Nghị định số 13/2022/NĐ-CP. Do đó, nội dung này cần được chỉnh sửa, bổ sung cụ thể tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Tuy nhiên, thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV và tại Công thư số 15/CTQH ngày 29/10/2024 của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Bộ Khoa học và Công nghệ kiến nghị chỉnh sửa theo hướng quy định các nội dung mang tính nguyên tắc về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và giao Chính phủ quy định chi tiết các lĩnh vực sản phẩm, hàng hóa trong sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng thuộc trách nhiệm quản lý của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực (bỏ nội dung giao trách nhiệm quản lý của Bộ, ngành đến từng sản phẩm, hàng hóa cụ thể).