Quang cảnh buổi Tọa đàm - Ảnh: BTC
Theo dõi, điều hành sát sao với diễn biến thực tế
Báo cáo do nhóm nghiên cứu kinh tế vĩ mô của VEPR vừa công bố đã chỉ ra một số yếu tố quốc tế có thể khiến nền kinh tế Việt Nam năm 2019 trở nên bất định hơn. Chẳng hạn như, nguy cơ leo thang của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và chủ nghĩa bảo hộ, rủi ro của kinh tế Trung Quốc gia tăng, tương lai không rõ ràng của tiến trình Brexit và mâu thuẫn trong nội bộ khu vực EU… có thể tạo nên những cú sốc trên thị trường thế giới và tác động đến nền kinh tế Việt Nam.
Bởi trong quý I/2019, tuy kinh tế của Mỹ và Trung Quốc vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá nhưng đã trở nên bấp bênh hơn do cả những vấn đề nội tại lẫn căng thẳng thương mại giữa hai quốc gia. Trong khi đó, nền kinh tế châu Âu có nhiều bất ổn trước áp lực của đàm phán Brexit cũng như các chia rẽ khác trong nội khối. Tăng trưởng cao nhất vẫn thuộc về nhóm nước ASEAN. Tuy nhiên, việc các liên kết kinh tế lớn trên thế giới rạn nứt đã, đang và sẽ gây không ít những bất ổn cho nhóm các nước này, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong hoạt động thương mại và toàn cầu hoá.
Đề cập đến những yếu tố trong nước, theo các chuyên gia của VEPR, tỷ lệ lạm phát bình quân quý I đang ở mức vừa phải, tuy nhiên đang có xu hướng gia tăng. Tác động của việc tăng giá điện và xăng dầu vừa qua đến CPI có thể kéo dài tới 2 - 6 tháng. Do vậy, để đạt được mục tiêu lạm phát dưới 4%, chính sách tiền tệ của NHNN vẫn cần phải thận trọng, nhất là chính sách đối với tăng trưởng cung tiền và tín dụng trong thời gian tới. Theo PGS,TS. Phạm Thế Anh, lạm phát bình quân quý I/2019 tăng 2,63% chủ yếu do sự gia tăng của giá năng lượng. Trong bối cảnh giá hàng hóa thế giới lên xuống thất thường, cùng với việc áp kịch trần thuế bảo vệ môi trường lên xăng dầu từ ngày 01/01/2019, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn cần theo dõi rủi ro lạm phát trong thời gian tới để có những biện pháp ứng phó phù hợp.
PGS,TS. Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng VEPR - cho rằng, sức ép từ tiến trình bình thường hóa tiền tệ ở các nền kinh tế lớn trên thế giới đã giảm. Điều này sẽ giúp NHNN bớt áp lực hơn trong việc điều hành tỷ giá và lãi suất. Do đó, tỷ giá và lãi suất được dự báo sẽ không có sự biến động nhiều trong năm 2019 và có thể nằm trong mức mục tiêu đã đề ra.
Tuy nhiên, theo khuyến cáo của các chuyên gia thuộc VEPR, chính sách tiền tệ cần thích ứng kịp thời với các biến động kinh tế. Ưu tiên hàng đầu là điều hành tỷ giá linh hoạt, nhằm hấp thụ bớt tác động từ các cú sốc bên ngoài. Đồng thời, lãi suất cần được giữ mức ổn định tạo điều kiện cho DN tiếp cận với thị trường vốn, đặc biệt đối với DN thuộc các ngành đang trên đà tăng tưởng và DN có tiềm năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra, cần tiếp tục hạ thấp đòn bẩy và lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng.
Dự báo tăng trưởng có thểđạt 6,8%
Báo cáo của VEPR cũng phân tích, tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong quý I/2019 đã thấp hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm trước (6,79% so với 7,45% của quý I/2018) và tốc độ tăng trưởng của một số ngành có dấu hiệu chậm lại. Đáng lưu ý, Chỉ số Quản lý thu mua (PMI) đã sụt giảm mạnh xuống mức thấp nhất 3 năm qua vào tháng 02/2019 do sự sụt giảm về lượng việc làm và hàng tồn kho khiến mức độ lạc quan của nhà sản xuất cũng giảm đáng kể.
Các chuyên gia nghiên cứu Báo cáo nhấn mạnh, tăng trưởng của nền kinh tế vẫn tiếp tục phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và xuất khẩu của khu vực này trong khi cổ phần hóa khu vực DNNN tiếp tục “dậm chân tại chỗ”. VEPR cho rằng, sự chuyển dịch của dòng FDI vào Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội từ Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Việt Nam - EU (EVFTA) và phòng ngừa rủi ro từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung cũng là những điểm cần chú ý trong năm nay.
Đã đến lúc Việt Nam cần rà soát lại các chính sách ưu đãi về thuế khóa hay đất đai đối với FDI nhằm tạo ra môi trường bình đẳng hơn với các DN trong nước. Trước sự “dậm chân tại chỗ” trong cổ phần hóa khu vực DNNN, VEPR nhận định, cổ phần hóa gần như không có sự tiến triển trong suốt một năm qua. Khó khăn trong quá trình định giá tài sản và tâm lý sợ trách nhiệm dường như đang là những rào cản chính của quá trình này. Trong khi đó, khu vực DN tư nhân trong nước cũng còn khá yếu. Kết thúc quý I, tuy có 43.500 DN đăng ký thành lập mới hoặc quay trở lại hoạt động nhưng cũng có tới 14.800 DN tạm dừng hoạt động (tăng 20,8%); 15.300 DN chờ giải thể và 4.100 DN hoàn tất thủ tục giải thể (tăng 23,9%). Điều này cho thấy môi trường kinh doanh của Việt Nam cần tiếp tục được cải thiện…
Qua nghiên cứu và tính toán, VEPR dự báo tăng trưởng kinh tế quý II/2019 có thể đạt 6,32%; quý III tăng lên 6,94%; quý IV đạt tới 7,16% và cả năm có thể đạt 6,8%. Lạm phát bình quân quý II có thể là 2,78%; quý III là 3,26%; quý IV là 4,2%. Đưa ra khuyến nghị về dài hạn, VEPR cho rằng, Việt Nam cần từng bước xây dựng đệm tài khóa, trước tiên thông qua việc tinh giản bộ máy nhà nước và cắt giảm chi tiêu thường xuyên. Một khi vấn đề thâm hụt ngân sách cao và nợ công tăng nhanh chưa được giải quyết, những thành tích về tăng trưởng hay lạm phát đang phải dựa vào một nền tảng bấp bênh.
QUỲNH ANH
Theo Báo Kiểm toán số 16 ra ngày 18-4-2019
Theo Báo Kiểm toán số 16 ra ngày 18-4-2019