Còn hơn 2.000ha phải trồng rừng thay thế
Theo kết quả kiểm toán, ngoại trừ Hải Dương, 3/4 địa phương đã thành lập được Quỹ. Tổng số thu trong kỳ của Quỹ giai đoạn 2020-2022 đến ngày 31/3/2023 là trên 541,236 tỷ đồng, số đã chi là 106,956 tỷ đồng, số dư cuối kỳ 517,979 tỷ đồng.
Từ khi thành lập Quỹ đến ngày 31/3/2023, 4 tỉnh, thành đã phê duyệt phương án thu tiền trồng rừng thay thế để chuyển đổi 5.470,01ha rừng sang mục đích khác, diện tích rừng phải trồng thay thế 5.607,54ha, diện tích rừng đã trồng thay thế 3.341,64ha (bằng 60% so với diện tích phải trồng), diện tích còn phải trồng rừng thay thế đến ngày 31/3/2023 tại các địa phương là 2.274,07ha.
Số tiền trồng rừng thay thế (275,318 tỷ đồng) đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế cần phải chuyển tiền trồng rừng thay thế về Quỹ để tổ chức trồng rừng thay thế tại địa phương khác theo quy định.
Một số địa phương đã chấp thuận phương án nộp tiền, thu tiền trồng rừng thay thế nhưng đến thời điểm kết thúc kiểm toán chưa giao kế hoạch trồng rừng thay thế cho toàn bộ diện tích rừng đã chuyển mục đích sử dụng rừng, diện tích rừng trồng thay thế. Đơn giá trong phương án trồng rừng thay thế được phê duyệt còn tính thiếu một số hạng mục chi phí theo quy định. Một số đơn vị còn tình trạng chưa nộp, chậm nộp tiền trồng rừng thay thế.
“Khoảng trống” chính sách
Kết quả kiểm toán cũng chỉ ra những “khoảng trống” trong cơ chế, chính sách hiện hành… Cụ thể, liên quan đến hệ số K1 điều chỉnh mức chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với trữ lượng rừng trồng theo Nghị định số 156/2018/NĐ-CP (Nghị định 156), kết quả kiểm toán cho thấy, Quảng Ninh và Bắc Giang phát sinh trường hợp cần xác định chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với trữ lượng rừng trồng nhưng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa có quy định, hướng dẫn xác định hệ số (K1) đối với trữ lượng rừng trồng để làm cơ sở cho việc thực hiện.
KTNN đề nghị UBND các tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, TP. Hải Phòng xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân có liên quan, nếu phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật thì xem xét xử lý và chỉ đạo cơ quan chức năng xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang phát sinh các trường hợp chậm nộp tiền trồng rừng thay thế theo quy định tại khoản 3, điều 4 Thông tư số 13/2019/TT-BNNPTNT (Thông tư 13) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tại thời điểm đơn vị thực hiện nộp tiền trồng rừng thay thế, đơn giá để trồng rừng thay thế đã thay đổi (xu hướng tăng lên) so với đơn giá được phê duyệt, dẫn đến tiền thu trồng rừng thay thế không đủ chi trồng đủ diện tích rừng đã chuyển đổi.
Luật Lâm nghiệp, Nghị định 156, Thông tư 13, Thông tư số 25/2022/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa có quy định về việc phải tính lại tiền trồng rừng thay thế tại thời điểm nộp, tính phạt chậm nộp tiền trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác. Nghị định số 35/2019/NĐ-CP không có quy định xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền trồng rừng thay thế. Điều này đã gây ra sự bất bình đẳng về pháp luật giữa đơn vị tuân thủ pháp luật và đơn vị chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật…
Chấn chỉnh, khắc phục các bất cập
Qua kiểm toán, KTNN đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Xem xét, báo cáo Chính phủ ban hành bổ sung quy định để xử lý việc chậm nộp tiền trồng rừng thay thế của các chủ dự án khi được phép chuyển đổi đất rừng sang mục đích khác và quy định tính lại đơn giá thu tiền trồng rừng thay thế tại thời điểm chủ dự án nộp tiền trồng rừng thay thế. Ban hành văn bản quy định, hướng dẫn xác định hệ số điều chỉnh (K1) mức chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với trữ lượng rừng cho rừng trồng làm cơ sở xác định số tiền chi trả cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Xem xét báo cáo Chính phủ bổ sung quy định cụ thể về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong chuyển loại rừng đặc dụng sang rừng khác tương ứng với thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng sang mục đích khác quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật Lâm nghiệp để quy định của pháp luật được chặt chẽ, thống nhất; Xem xét bổ sung quy định về thời gian chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng tại Điều 69, Điều 71 Nghị định 156 đối với các địa phương có mức chi trả hằng năm cho 1 đơn vị cung ứng dịch vụ môi trường rừng thấp.
KTNN đề nghị Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam sớm có các văn bản hướng dẫn Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Quảng Ninh và Bắc Giang trong việc chuyển về Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam kinh phí trồng rừng thay thế đã thu quá thời hạn 12 tháng kể từ khi chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế theo đúng quy định./.