Trình bày Tờ trình của KTNN về Dự án Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN, Tổng Kiểm toán nhà nước Ngô Văn Tuấn nêu rõ, mục đích ban hành Pháp lệnh nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTNN; tạo cơ sở pháp lý cho việc xử phạt hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực KTNN; nâng cao hiệu lực hoạt động kiểm toán của KTNN và tính nghiêm minh của pháp luật.
Tổng Kiểm toán nhà nước cũng cho biết, Dự thảo Pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và trong hoạt động KTNN nói riêng, kinh nghiệm xử phạt hành vi vi phạm hành chính từ thực tiễn hoạt động của các lĩnh vực tương đồng.
“Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên xây dựng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN nên chỉ quy định xử phạt đối với các hành vi vi phạm đã rõ, xảy ra thường xuyên và mang tính phổ biến để bảo đảm tính khả thi của Pháp lệnh” - Tổng Kiểm toán nhà nước nhấn mạnh.
Với quan điểm đó, bố cục Dự thảo Pháp lệnh gồm 5 chương, 21 điều.
Cụ thể, Dự thảo Pháp lệnh quy định, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính là những chủ thể có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm của Luật KTNN.
Để đảm bảo tính thống nhất với quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 3 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, Dự thảo Pháp lệnh quy định theo hướng đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan nhà nước không bị xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm khi đang thực hiện công vụ, nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc nhiệm vụ, công vụ được giao.
Về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN, Tổng Kiểm toán nhà nước cho biết, hành vi này được xác định căn cứ vào các quy định của Luật KTNN và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động KTNN, cụ thể: vi phạm quy định về các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 8 của Luật KTNN; vi phạm quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán quy định tại Điều 57 và Điều 58 của Luật KTNN; vi phạm quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động kiểm toán nhà nước quy định tại Điều 68 của Luật KTNN.
Về hình thức xử phạt, căn cứ quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt hành chính bao gồm phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền (đến 50 triệu đồng đối với cá nhân và đến 100 triệu đồng đối với tổ chức). Trong đó, quy định mức phạt tiền được xây dựng phù hợp theo nguyên tắc bảo đảm mức độ răn đe và tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm tính khả thi, mức độ giáo dục pháp luật và tính hợp lý của việc áp dụng hình thức, mức phạt.
Đồng thời, Dự thảo Pháp lệnh quy định biện pháp khắc phục hậu quả gồm: buộc cải chính thông tin, tài liệu, dữ liệu có nội dung sai lệch, không chính xác hoặc không trung thực; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm toán nhà nước; buộc nộp lại số tiền tương ứng với số tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác đã đưa hoặc sẽ đưa để mua chuộc, hối lộ thành viên đoàn kiểm toán.
Về các hành vi vi phạm hành chính; hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể trong lĩnh vực KTNN, Dự thảo Pháp lệnh đã quy định 07 điều (từ Điều 8 đến Điều 14) theo hướng căn cứ vào các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm trong Luật KTNN, đồng thời tham khảo, đối chiếu với quy định của Nghị định số 41/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập thì các hành vi quy định tại Dự thảo Pháp lệnh có tính tương đồng, không chồng lấn, mâu thuẫn.
Theo đó, Dự thảo chia thành 07 nhóm loại hành vi vi phạm (là các hành vi phổ biến, xảy ra thường xuyên trên thực tế) tương ứng với đó là hình thức, mức phạt tiền và các biện pháp khắc phục hậu quả.
Dự thảo Pháp lệnh cũng quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Theo đó, Dự thảo Pháp lệnh quy định 4 chức danh có thẩm quyền lập biên bản: Kiểm toán viên nhà nước; Tổ trưởng Tổ kiểm toán; Trưởng đoàn kiểm toán; Kiểm toán trưởng. Đồng thời, quy định cụ thể về thẩm quyền của Trưởng đoàn kiểm toán và Kiểm toán trưởng trong việc xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả; về khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
Thẩm tra Tờ trình của KTNN, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, Ủy ban Pháp luật nhất trí sự cần thiết ban hành Pháp lệnh và tán thành với tên gọi là Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
“Việc ban hành Pháp lệnh là thực hiện đúng quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính, Chương trình công tác năm 2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đáp ứng yêu cầu thực tiễn cần xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực này” - ông Hoàng Thanh Tùng nêu rõ.
Về phạm vi điều chỉnh, do đây là lần đầu tiên xây dựng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với lĩnh vực KTNN nên Ủy ban Pháp luật thống nhất quan điểm Pháp lệnh chỉ quy định việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm đã rõ, xảy ra thường xuyên và mang tính phổ biến để bảo đảm tính khả thi; qua quá trình thực hiện sẽ tiến hành tổng kết, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung trong trường hợp cần thiết.
Cơ quan thẩm tra đánh giá, Hồ sơ Dự án Pháp lệnh đã được KTNN chuẩn bị nghiêm túc, đầy đủ theo quy định, đủ điều kiện trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Sau khi nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tập trung thảo luận về các nội dung của Dự thảo Pháp lệnh.
Theo Dự thảo Pháp lệnh, 7 nhóm hành vi vi phạm trong lĩnh vực KTNN gồm:
+ Hành vi vi phạm các quy định về gửi báo cáo định kỳ (Điều 8);
+ Hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện việc kiểm toán (Điều 9);
+ Hành vi vi phạm quy định về trả lời và giải trình liên quan đến nội dung kiểm toán (Điều 10);
+ Hành vi không ký biên bản kiểm toán, không chấp hành quyết định kiểm toán (Điều 11);
+ Hành vi mua chuộc, hối lộ thành viên Đoàn kiểm toán, cản trở công việc của KTNN (Điều 12);
+ Hành vi che giấu hành vi vi phạm pháp luật về tài chính công, tài sản công, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán, kết quả kiểm toán (Điều 13);
+ Hành vi vi phạm quy định về thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN (Điều 14).