
Xử tài sản bảo đảm vướng ở nhiều khâu
Văn bản cho biết, Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42) hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024 và quy định về thu giữ TSBĐ để xử lý nợ xấu của TCTD không được đưa vào Luật Các TCTD năm 2024. Do vậy, các TCTD chỉ có thể áp dụng cơ chế khởi kiện ra tòa án, gây khó khăn, chậm trễ, tăng chi phí cho các TCTD trong hoạt động xử lý TSBĐ.
Ngoài ra, trên thực tế, nhiều khách hàng biết quy định TCTD có quyền thu giữ TSBĐ đã hết hiệu lực, cố tình chây ỳ và bất hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý TSBĐ, vì vậy, việc xử lý TSBĐ của các TCTD càng khó khăn hơn.
Theo quy định, TCTD được phép nhận TSBĐ để thay thế nghĩa vụ trả nợ và được sở hữu tài sản nhận thay thế nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc nhận TSBĐ thay thế nghĩa vụ trả nợ của các TCTD gặp nhiều vướng mắc do các cơ quan đăng ký đất đai địa phương có cách hiểu không thống nhất về việc nhận TSBĐ thay thế nghĩa vụ trả nợ, dẫn đến rủi ro tranh chấp, TCTD khó có thể chủ động trong việc xử lý tài sản.
Khi thẩm định TSBĐ, pháp luật chưa có quy định yêu cầu TCTD phải kiểm tra về chủ sở hữu tài sản trước chuyển nhượng và cũng không có cơ sở yêu cầu chủ sở hữu tài sản hiện tại (trên Giấy chứng nhận) cung cấp thông tin của bên chuyển nhượng do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được cơ quan có thẩm quyền cấp hợp pháp.
Mặt khác, do quyền sử dụng đất có thể được chuyển nhượng nhiều lần giữa nhiều chủ thể, nếu một trong số giao dịch chuyển nhượng bị vô hiệu thì TCTD không có điều kiện để biết/lường trước được sự việc để thẩm định, kiểm tra vì TCTD không có chức năng, thẩm quyền để thẩm tra nguồn gốc hình thành lên TSBĐ. Do đó, nếu quy trách nhiệm về thẩm định cho ngân hàng thì điều này sẽ gây khó khăn rất lớn, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích chính đáng của TCTD, bên thứ ba ngay tình theo quy định pháp luật.
Hiện nay, việc bán nợ của TCTD đang được thực hiện theo Thông tư số 09/2015/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 18/2022/TT-NHNN), phạm vi khoản nợ được bán chỉ bao gồm “khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, khoản trả thay trong nghiệp vụ bảo lãnh”. Như vậy, các TCTD chưa có cơ sở pháp lý để bán các khoản nợ phát sinh từ các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Theo Hiệp hội Ngân hàng, ngoài những vướng mắc liên quan đến việc triển khai các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu và TSBĐ, mua bán nợ, thực tiễn triển khai tại các cơ quan tòa án, cơ quan thi hành án còn có những vướng mắc.
Bảo đảm quyền lợi của ngân hàng trong xử lý nợ xấu
Từ những khó khăn, vướng mắc của các TCTD hội viên, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét luật hóa các quy định chưa được kế thừa đầy đủ từ Nghị quyết 42 để đảm bảo quyền lợi của bên cho vay là TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu, cụ thể như sau:
Bổ sung quyền thu giữ của TCTD trong trường hợp quyền thu giữ TSBĐ của TCTD đã được thỏa thuận tại Hợp đồng bảo đảm và/hoặc trong Biên bản thỏa thuận và/hoặc trong Biên bản làm việc. Đồng thời bổ sung quy định về trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp và cơ quan công an trong việc phối hợp, tạo điều kiện cho TCTD thu giữ TSBĐ.
Việc bán khoản nợ xấu phát sinh từ tất cả các nghiệp vụ cấp tín dụng, không chỉ giới hạn ở nghiệp vụ cho vay và bảo lãnh như hiện nay.
Ban hành quy định cho phép Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ tại Tòa án. Mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ và tranh chấp tín dụng thay vì chỉ áp dụng đối với “tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu” như Nghị quyết 42 trước đây quy định.
Sửa đổi quy định về thứ tự ưu tiên thu nợ từ tiền bán TSBĐ theo hướng không khấu trừ thuế thu nhập cá nhân/doanh nghiệp và án phí từ tiền bán tài sản trước khi TCTD thực hiện thu nợ (vì đó là các nghĩa vụ không có bảo đảm trong khi nghĩa vụ nợ được bảo đảm bằng chính tài sản được bán). Đồng thời quy định rõ hồ sơ, thủ tục sang tên TSBĐ cho người mua không bị ảnh hưởng bởi việc chậm nghĩa vụ nộp khoản thuế này của chủ tài sản.
Sửa đổi quy định về hoàn trả vật chứng theo hướng vật chứng là TSBĐ của TCTD thì sẽ được hoàn trả lại cho TCTD nếu lỗi vi phạm không thuộc trách nhiệm/ngoài tầm kiểm soát của TCTD.
Quy định về hồ sơ, thủ tục TCTD xử lý/chuyển nhượng TSBĐ là dự án bất động sản (đã hình thành hoặc hình thành trong tương lai), các TSBĐ khác do TCTD nhận gán nợ.
Hiệp hội Ngân hàng cũng kiến nghị sửa đổi Luật Thi hành án dân sự theo hướng: Ghi nhận thứ tự ưu tiên thanh toán nợ cho TCTD trước các nghĩa vụ thuế/án phí của Khách hàng/Bên bảo đảm, đảm bảo thống nhất với Điều 307 và Điều 308 Bộ luật Dân sự 2015; quy định bổ sung việc không kê biên TSBĐ đang bảo đảm cho khoản nợ tại TCTD trừ trường hợp được TCTD chấp thuận; bổ sung thời hạn phản hồi yêu cầu giải thích bản án, quyết định của Tòa án tại Điều 486 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 hoặc Điều 365 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015; sửa đổi, bổ sung quy định (bao gồm cả chế tài hình sự) đối với những tổ chức/cá nhân mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng có hành vi cố tình chống đối, không chấp hành bản án/quyết định của cơ quan thi hành án, qua đó nâng cao ý thức chấp hành bản án/quyết định của Tòa án…
Hiệp hội Ngân hàng đề nghị xem xét mở rộng phạm vi xác định hoạt động phát sinh nợ xấu đối với các khoản nợ mà TCTD mua từ tổ chức/cá nhân (không phải TCTD); ban hành quy định nâng cao tính thanh khoản thị trường thông qua việc phát triển các công cụ và dịch vụ hỗ trợ như xây dựng bộ tiêu chí, công thức định giá nợ xấu; quy định việc thành lập, hoạt động của các tổ chức có chức năng thẩm định giá khoản nợ xấu; xây dựng chính sách ưu đãi miễn/giảm thuế đối với hoạt động mua bán nợ xấu của các TCTD; …
Để đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xử lý vụ việc của Tòa án, cơ quan thi hành án, đề nghị bổ sung quy định các cơ quan này có trách nhiệm thực hiện đúng các quy định pháp luật về thời hạn tố tụng, thời hạn thi hành án; nâng cao trách nhiệm giải quyết, xét xử tranh chấp kinh doanh thương mại của đội ngũ Thẩm phán, đảm bảo tuyên các bản án, quyết định đúng pháp luật, phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các bên và có tính khả thi để đảm bảo hiệu quả thi hành./.