
Phân định rõ thẩm quyền, rõ trách nhiệm
BVMT đang là một trong những thách thức toàn cầu lớn nhất, trong đó có Việt Nam. Qua thực tiễn giám sát của Quốc hội cũng như kết quả kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (KTNN) cho thấy, hạn chế lớn nhất hiện nay là chính sách và pháp luật về BVMT còn thiếu đồng bộ, chồng chéo và chưa bao quát các vấn đề mới phát sinh.
Các quy định về BVMT hiện vẫn rải rác trong nhiều đạo luật như Luật BVMT, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng..., gây khó khăn trong áp dụng. Một số lĩnh vực mới - như xử lý chất thải rắn, phát thải khí nhà kính, kinh tế tuần hoàn - chưa có hành lang pháp lý điều chỉnh rõ ràng, tạo kẽ hở cho vi phạm. Trong khi đó, chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe, khiến nhiều hành vi gây ô nhiễm vẫn tái diễn.
Đặc biệt, quá trình sắp xếp tổ chức, chuyển đổi mô hình chính quyền địa phương hai cấp cũng đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xác định lại thẩm quyền và trách nhiệm trong quản lý môi trường.
Tại buổi làm việc với Chính phủ, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Trưởng Đoàn giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT kể từ khi Luật BVMT 2020 có hiệu lực thi hành”, nhấn mạnh: Chính phủ cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách, pháp luật về BVMT, trong đó trọng tâm là hoàn thiện thể chế, pháp luật và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
Theo đó, Chính phủ được đề nghị khẩn trương hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật BVMT 2020, phù hợp mô hình chính quyền hai cấp; đồng thời, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những quy định còn bất cập để theo kịp thực tiễn phát triển. Việc phân quyền, phân cấp rõ ràng, gắn với nguyên tắc “địa phương chịu trách nhiệm” cần được xem là chìa khóa để nâng cao hiệu quả quản lý môi trường.
Cùng với đó, ưu tiên đầu tư ngân sách kết hợp huy động nguồn lực xã hội hóa cho các dự án xử lý chất thải rắn, nước thải sinh hoạt, khắc phục ô nhiễm kéo dài.
Đại diện Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, Chính phủ đang tập trung ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường mới, bảo đảm thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư; đồng thời, nâng mức xử phạt, thực hiện nghiêm nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành vi.
BVMT cần tư duy hệ thống và hành động hệ thống. BVMT không chỉ là chuyện riêng của Nhà nước mà phải là chuyện của mọi người dân. BVMT cần bén rễ trong nhận thức và văn hóa ứng xử thường ngày của mỗi công dân. Mỗi chúng ta không chỉ chấp hành pháp luật về BVMT mà còn đang bảo vệ chính mình, đang gìn giữ và tạo dựng môi trường sống cho gia đình, cho người thân, cộng đồng và hơn hết là tương lai của các thế hệ mai sau.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang tham mưu Chính phủ báo cáo Quốc hội ban hành Nghị quyết nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách, pháp luật về BVMT; trong đó, đề xuất cơ cấu lại chi ngân sách môi trường theo hướng trọng tâm, trọng điểm, tập trung xử lý triệt để các điểm nóng ô nhiễm, đầu tư hạ tầng môi trường thiết yếu.
Đại biểu Quốc hội Lý Anh Thư (An Giang) đề nghị, cần rà soát các dự án hạ tầng môi trường chậm tiến độ hoặc thiếu vốn, có phương án giải quyết dứt điểm; đồng thời, tạo cơ chế đặc thù thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư, quản lý và vận hành hệ thống xử lý chất thải.
Không chỉ ở góc độ quản lý, KTNN cũng đồng hành tích cực trong công cuộc BVMT, thông qua kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật từ thực tiễn kiểm toán. Theo TS. Đặng Văn Hải - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế KTNN, nội dung kiểm toán môi trường sẽ tiếp tục được chú trọng, trở thành trọng tâm trong sửa đổi Luật Kiểm toán nhà nước thời gian tới.
Phát huy vai trò của các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường
Song song với hoàn thiện thể chế, việc thực thi hiệu quả các chính sách môi trường là yếu tố quyết định. Thực tế cho thấy, ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận doanh nghiệp và người dân vẫn chưa cao; trong khi đó, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe.
Theo Bộ Tài chính, trong 9 tháng năm 2025, các cơ quan chức năng phát hiện hơn 11.600 vụ vi phạm môi trường, xử lý 10.306 vụ với tổng số tiền phạt gần 165 tỷ đồng, giảm 26,6% so với cùng kỳ năm 2024. Không dừng lại ở việc xử lý vi phạm hành chính, phạt tiền, nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về BVMT đã bị điều tra, xét xử theo quy định của pháp luật. Tuy vậy, mỗi năm vẫn có hàng chục nghìn vụ vi phạm, cho thấy tình trạng ô nhiễm vẫn đáng lo ngại, đặc biệt tại các khu công nghiệp, làng nghề và đô thị lớn.
Chính phủ thừa nhận, nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí khắc phục” chưa được áp dụng triệt để; thuế và phí môi trường chưa phát huy vai trò công cụ kinh tế điều tiết hành vi và thúc đẩy mô hình kinh tế xanh.
Đại biểu Quốc hội Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho rằng, mục tiêu của các công cụ kinh tế môi trường không chỉ là tạo nguồn thu, mà là thay đổi hành vi xã hội theo hướng thân thiện môi trường. Tuy nhiên, hiện nhiều doanh nghiệp vẫn xem thuế, phí là chi phí bắt buộc, chưa coi đó là động lực đổi mới công nghệ sạch.
Đáng chú ý, chi ngân sách cho BVMT hiện chỉ đạt khoảng 51% số thu từ các khoản thuế, phí môi trường, nghĩa là phần lớn nguồn thu chưa được quay lại phục vụ cho chính mục tiêu môi trường. Đại biểu đề nghị điều chỉnh mức thuế, phí phản ánh đúng chi phí môi trường thực tế, mở rộng áp dụng đối với các hoạt động phát thải, khai thác gây ô nhiễm chưa được kiểm soát.
Đồng bộ chính sách - Nền tảng cho phát triển bền vững
Từ góc độ giám sát, đại biểu Quốc hội Thạch Phước Bình (Vĩnh Long) kiến nghị, Nghị quyết giám sát của Quốc hội về BVMT cần thể hiện rõ tinh thần “rõ người - rõ việc - rõ thời hạn - rõ kết quả”, gắn thưởng - phạt ngân sách và có chế tài mạnh với hành vi không thực hiện. Đồng thời, công khai dữ liệu, hình ảnh vi phạm để toàn xã hội cùng giám sát.
Một nền quản trị môi trường hiệu quả không thể chỉ dựa trên văn bản, mà phải dựa trên sự kết hợp đồng bộ giữa thể chế chặt chẽ, thực thi nghiêm minh và nhận thức xã hội tiến bộ. Chỉ khi pháp luật được tôn trọng, cơ quan quản lý hành động quyết liệt và người dân, doanh nghiệp thay đổi hành vi - khi ấy, mục tiêu phát triển bền vững mới thật sự được hiện thực hóa.
Đó cũng chính là thước đo cao nhất của hiệu lực pháp luật, năng lực quản trị quốc gia và niềm tin của Nhân dân - nền tảng bền vững cho một Việt Nam xanh, sạch và thịnh vượng./.
