Thách thức lớn trong quản lý Quỹ BHYT
Những năm qua, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện dịch vụ y tế, với kết quả tích cực từ việc mở rộng diện bao phủ BHYT, đảm bảo quyền lợi khám, chữa bệnh (KCB) cho người có thẻ BHYT... Song song với đó, Việt Nam cũng đối mặt với những thách thức lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý Quỹ BHYT, đảm bảo sự công bằng trong việc tiếp cận dịch vụ y tế.
Theo Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Đức Hòa, cùng với thành tựu bao phủ BHYT tăng nhanh chóng, thì số lượt KCB BHYT cũng tăng cao tương ứng; nguồn lực của Quỹ BHYT tăng chậm hơn mức chi, khi mức đóng vẫn đang ổn định từ năm 2009 đến nay, chỉ thay đổi số tiền cụ thể cùng với điều chỉnh tăng lương cơ sở. Trong khi đó, quyền lợi của người tham gia BHYT ngày càng mở rộng, với số tăng chi phí lớn từ các loại vật tư thay thế mới, danh mục thuốc mở rộng… Bên cạnh đó, chi phí lương và trợ cấp của nhân viên y tế cũng đã được cơ cấu thêm vào giá dịch vụ y tế, theo xu thế dần tính đủ 7 yếu tố chi phí vào giá.
Làm rõ hơn những thách thức đối với Quỹ BHYT hiện nay, ông Lê Văn Phúc - Trưởng Ban Thực hiện chính sách BHYT (BHXH Việt Nam) cho biết: Sau hơn 10 năm kể từ khi có Luật BHYT, số thu và chi từ Quỹ BHYT đều tăng khoảng 8 lần. Sau 5 năm thực hiện Luật BHYT sửa đổi, số chi KCB đã tăng gấp 2, số chi KCB năm 2016 tăng 46% so với năm 2009 và lần đầu tiên Quỹ KCB mất cân đối.
Trong 2 năm (2020-2021) Quỹ BHYT kết dư trở lại (do Covid-19 giãn cách xã hội, nên số lượt đi KCB giảm, còn chi phí điều trị Covid-19 do ngân sách nhà nước chi trả). Tuy nhiên, đến năm 2022, Quỹ BHYT lại mất cân đối vì chi trả số tồn năm trước.
Trong khi đó, phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT ngày càng mở rộng. Bên cạnh đó, nhiều chính sách đang “khuyến khích” tăng cung ứng dịch vụ y tế như: chính sách tự chủ bệnh viện trong khi hình thức thanh toán theo phí dịch vụ vẫn là chủ yếu; quy định đăng ký KCB ban đầu không thực sự hiệu quả khi thực hiện song song chính sách "thông tuyến"; xã hội hóa trang thiết bị y tế, liên doanh liên kết, quy định cho phép cơ sở y tế được thu thêm chênh lệch giá. Đồng thời, chúng ta thiếu các “công cụ” kiểm soát chi phí; cơ chế, chính sách cũng chưa thực sự bảo vệ quyền lợi cho người tham gia BHYT (chưa có chế tài xử phạt đủ mạnh đối với trường hợp không đảm bảo cung ứng thuốc, vật tư y tế cho người bệnh BHYT; chế tài xử phạt khi chỉ định dịch vụ y tế không hợp lý, gây lãng phí nguồn lực y tế không đủ mạnh; giá dịch vụ y tế chưa được tính đủ, người bệnh phải chi trả chênh lệch giá)…
Hóa giải thách thức bằng cách nào?
Theo ông Lê Văn Phúc, để hóa giải thách thức, đảm bảo cân đối thu - chi, bên cạnh duy trì và phát triển bền vững tỷ lệ bao phủ BHYT toàn dân, rất cần cải thiện hiệu suất sử dụng Quỹ BHYT, đảm bảo tính bền vững của Quỹ, bảo vệ tài chính cho người tham gia BHYT. Bên cạnh đó, cũng cần thay đổi phương thức thanh toán…
Tại Hội thảo khoa học “Quản lý và sử dụng hiệu quả quỹ BHYT: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam” do BHXH Việt Nam tổ chức vừa qua, ông Christophe Lemiere - Quản lý Chương trình Phát triển con người (Ngân hàng Thế giới) đã chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về xây dựng gói quyền lợi BHYT để quản lý hiệu quả Quỹ BHYT. Theo đó, gói quyền lợi BHYT nên bao gồm các dịch vụ dự phòng bệnh; mở rộng mức độ được hưởng đối với các dịch vụ ưu tiên hiện có trước khi mở rộng gói quyền lợi. Bên cạnh đó, cần loại bỏ các dịch vụ giá trị thấp trước khi mở rộng gói quyền lợi; quy định chu kỳ sửa đổi, xây dựng gói quyền lợi có sự tham gia của các bên liên quan…
Điều này đảm bảo khả năng chi trả, tính bền vững, tính hiệu suất của Quỹ BHYT, trong đó cần loại bỏ dịch vụ chăm sóc không phù hợp. Việc cập nhật gói quyền lợi cũng đảm bảo phù hợp với gánh nặng bệnh tật; phù hợp với các mục tiêu của hệ thống y tế - ông Christophe Lemiere nhấn mạnh.
Chuyên gia của Ngân hàng thế giới khuyến nghị, Việt Nam cần tiến hành đánh giá toàn bộ các gói quyền lợi BHYT, trong đó có dịch vụ phòng bệnh; làm rõ gói quyền lợi BHYT (từng dịch vụ và tuyến/hạng cơ sở cung cấp) đối với các bệnh mạn tính phổ biến; kiểm soát chặt chẽ hơn hành vi cung cấp dịch vụ y tế không hiệu quả kinh tế (ví dụ nhập viện nội trú không cần thiết); thiết lập đơn vị đánh giá công nghệ y tế hoạt động hiệu quả; hạch toán chi phí cấp dịch vụ y tế theo phương pháp đã chuẩn hóa.
Theo GS.TS.Hoàng Văn Minh - Hiệu trưởng Trường Đại học Y tế Công cộng, trong bối cảnh Quỹ BHYT Việt Nam mất cân đối thu chi, có 2 giải pháp chính có thể được xem xét: Tăng thu và giảm chi.
Với bối cảnh đời sống kinh tế xã hội Việt Nam, giải pháp khả thi nhất sẽ nghiêng về "giảm chi", với hai nội dung chính: Đổi mới phương thức chi trả; chi hợp lý. “Công cụ hiệu quả nhất cho mục tiêu chi phí - hiệu quả là sử dụng công nghệ y tế trong cả quá trình xây dựng chính sách: từ xây dựng danh mục thuốc, dịch vụ y tế; đến đánh giá tác động ngân sách. Đây cũng là những kinh nghiệm đã được áp dụng hiệu quả tại nhiều quốc gia trên thế giới (Thái Lan, Trung Quốc, Anh, Úc, Hàn Quốc).
Trong khi đó, ông Nguyễn Trí Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ BHYT (Bộ Y tế) chỉ rõ, Luật BHYT quy định áp dụng 3 phương thức thanh toán chi phí KCB, nhưng hiện nay vẫn đang chủ yếu là theo phương thức thanh toán theo giá dịch vụ và phương thức này cũng đã bộc lộ nhiều bất cập.
Theo ông Dũng, khi các phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, để đảm bảo sử dụng Quỹ BHYT hiệu quả, chúng ta cần tập trung làm tốt phương thức thanh toán theo phí dịch vụ.
“Với vai trò cơ quan quản lý, Bộ Y tế đang cố gắng rà soát, hoàn thiện các quy trình chuyên môn, quy trình nhập viện nội trú, chẩn đoán điều trị… Các đơn vị nghiệp vụ của Bộ Y tế và BHXH Việt Nam đang phối hợp chặt chẽ để giám sát chi phí KCB, cũng như cảnh báo các trường hợp chi phí cao đến cơ sở y tế để rà soát, điều chỉnh…” - ông Dũng thông tin./.