Còn nhiều rào cản hạn chế đầu tư theo phương thức đối tác công tư

(BKTO) - Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) đã được ban hành, song vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập, nên việc thu hút nguồn vốn tư nhân vào các dự án PPP vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về PPP để có thể hấp dẫn được các nhà đầu tư.

Còn nhiều bất cập trong cơ chế chia sẻ rủi ro

Ngày 9/11, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo “Đầu tư theo phương thức đối tác công tư tại Việt Nam hiện nay: Rào cản và giải pháp”.

hth.jpg
Quang cảnh Hội thảo. Ảnh: D.THIỆN

Đại diện nhóm nghiên cứu trình bày Báo cáo, ông Nguyễn Minh Đức - Ban Pháp chế, VCCI cho biết, các dự án PPP đã được triển khai tại Việt Nam qua 3 thập kỷ trong nhiều lĩnh vực quan trọng như giao thông, năng lượng, y tế, giáo dục, nước sạch, xử lý chất thải…, trong đó 2 lĩnh vực là hạ tầng giao thông và năng lượng nhận được số vốn đầu tư lớn nhất. Sau giai đoạn bùng nổ đầu tư các dự án PPP giao thông từ năm 2011 đến năm 2016, hiện nay, số lượng dự án và nguồn vốn tư nhân dành cho PPP đang chững lại.

Lý giải nguyên nhân, ông Đức cho biết còn nhiều vướng mắc, bất cập trong các quy định hiện hành liên quan đến các vấn đề lớn như thủ tục đầu tư, cơ chế chia sẻ rủi ro, hay những khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng của nhà đầu tư, cũng như thiếu cơ chế giải quyết tranh chấp…

Cụ thể, về thủ tục đầu tư, Luật PPP có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Tuy nhiên, đến cuối tháng 3/2021, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 28/2021/NĐ-CP quy định cơ chế quản lý tài chính dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật PPP. Như vậy, 2 nghị định này chậm ban hành so với thời điểm có hiệu lực của Luật gần 3 tháng. Các văn bản hướng dẫn khác của Luật PPP cũng được ban hành khá chậm.

“Việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn được coi là điểm nghẽn lớn nhất hiện nay đối với việc thực hiện các dự án PPP trong vài năm qua và cả trong thời gian tới” - ông Đức nhấn mạnh.

Liên quan đến cơ chế chia sẻ rủi ro, mặc dù Luật PPP đã quy định một số biện pháp bảo đảm đầu tư và chia sẻ rủi ro trong các dự án PPP, tuy nhiên, các biện pháp này được đánh giá chưa đáp ứng các yêu cầu của thị trường.

Đơn cử, đối với cam kết chia sẻ rủi ro về doanh thu, Điều 82 Luật PPP quy định cam kết bảo đảm doanh thu tối thiểu đối với dự án PPP theo hình thức BOT, BTO, BOO. Trường hợp kể cả sau khi điều chỉnh biểu giá, phí, thời hạn hợp đồng dự án mà doanh thu thực tế hàng năm dưới 75% doanh thu trong phương án tài chính, Nhà nước cam kết bù đắp 50% phần thiếu hụt này cho doanh nghiệp thực hiện dự án PPP.

Tuy nhiên, Luật PPP cho phép việc này chỉ được thực hiện khi “quy hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan thay đổi làm giảm doanh thu”. Với quy định này, Nhà nước không chia sẻ rủi ro doanh thu do những yếu tố thị trường và nhu cầu, mà chỉ chia sẻ trong trường hợp có thay đổi về quy hoạch và pháp luật làm giảm doanh thu.

Ngoài ra, trong Luật PPP cũng chưa có cơ chế đảm bảo trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong các hợp đồng PPP. Trong khi đó, rủi ro cho nhà đầu tư tư nhân trong trường hợp các cơ quan ký kết hợp đồng không hoàn thành trách nhiệm của mình theo hợp đồng dẫn tới thiệt hại tài chính cho nhà đầu tư tư nhân là rất lớn.

Bên cạnh các vướng mắc, bất cập trong khuôn khổ hệ thống pháp luật, theo ông Đức, các nhà đầu tư tư nhân cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng làm cản trở khả năng tham gia vào các dự án PPP.

Ngoài ra, việc các dự án PPP giao thông không đạt doanh thu khiến khoản vay bị chuyển sang nhóm nợ cao hơn, điều này làm lịch sử tín dụng của nhà đầu tư trở nên xấu hơn và khiến cho việc tiếp cận tín dụng của các dự án khác trở nên khó khăn hơn…

ppp.jpg
Nhiều dự án hạ tầng giao thông được triển khai theo hình thức PPP. Ảnh minh họa: TTXVN

Cần nới tỷ lệ vốn tham gia của Nhà nước trong các dự án PPP

Theo các chuyên gia, hiện nay, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới, đang đặt ra nhu cầu rất lớn đối với cơ sở hạ tầng quốc gia. Trong bối cảnh nguồn lực ngân sách nhà nước còn hạn chế, đầu tư theo phương thức PPP được kỳ vọng sẽ giúp bổ sung phần vốn thiếu hụt giữa nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng và khả năng cấp vốn của ngân sách. Thực tế này đòi hỏi trong thời gian tới, Nhà nước cần tháo gỡ các vướng mắc, bất cập, tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về PPP để có thể hấp dẫn được các nhà đầu tư tư nhân.

Đưa khuyến nghị, theo nhóm nghiên cứu thực hiện Báo cáo, trước hết, các Bộ chuyên ngành cần đẩy nhanh việc ban hành các văn bản ở cấp thông tư hướng dẫn chi tiết thực hiện dự án PPP ở từng lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

Bên cạnh đó, theo bà Nguyễn Thanh Hà - Phó Giám đốc Công ty Luật Vietthink, các quy định pháp luật cần được sửa đổi để khắc phục các vấn đề cản trở đầu tư tư nhân vào các dự án PPP. Theo đó, pháp luật PPP cần quy định rõ ràng về cơ chế, trách nhiệm hỗ trợ tài chính, thanh toán và chia sẻ rủi ro doanh thu với nhà đầu tư tư nhân.

Đặc biệt, cần nới tỷ lệ vốn tham gia của Nhà nước trong các dự án PPP. Theo bà Hà, quy định trong Luật PPP hiện đang khống chế tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia không vượt quá 50% tổng mức đầu tư dự án PPP. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, một số dự án có nhu cầu sử dụng vốn cao hoặc có nhu cầu về giải phóng mặt bằng lớn tại các dự án về hạ tầng giao thông, nếu phải duy trì tỷ lệ trên thì sẽ dẫn đến kéo dài thời gian hoàn vốn, khó khăn trong việc huy động vốn từ các nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng, cũng như kéo dài tiến độ triển khai thực hiện dự án. "Do đó, các dự án PPP cần phải nới tỷ lệ tham gia vốn của Nhà nước trên mức 50% tổng mức đầu tư dự án” - bà Hà đề xuất.

Chia sẻ thêm khuyến nghị liên quan đến cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu, ông Lê Nết - Luật sư thành viên, Công ty Luật LNT&Partners cho rằng, một trong những điểm quan trọng để thực hiện cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu là việc điều chỉnh giá, phí để thể hiện tăng, giảm doanh thu. Quá trình này trên thực tế đôi khi mất nhiều thời gian và có thể gây khó khăn cho các đối tác khi đàm phán với ngân hàng. Do đó, quy định pháp luật cần được chỉnh sửa, bổ sung theo hướng đơn giản hóa quy trình hoặc có cách thức tính toán và thực hiện cơ chế chia sẻ một cách hiệu quả hơn, để đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên./.

Cùng chuyên mục
Còn nhiều rào cản hạn chế đầu tư theo phương thức đối tác công tư