Để doanh nghiệp có thể vay vốn

(BKTO) - Lãi suất tín dụng ở Việt Nam trong năm 2024 đã có xu hướng giảm nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các ngân hàng thương mại đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp và người dân.

1(3).jpg
Mặc dù lãi suất đã giảm, nhiều doanh nghiệp vẫn tỏ ra thận trọng trong việc vay vốn. Ảnh: ST

Các biện pháp này bao gồm: Việc rà soát và điều chỉnh các quy định liên quan đến hoạt động cho vay, cũng như khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm chi phí, đơn giản hóa các thủ tục cho vay và tăng cường ứng dụng công nghệ.

Cụ thể, lãi suất cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới ở các ngân hàng thương mại đã giảm so với cuối năm 2023, phản ánh nỗ lực của NHNN trong việc điều hành lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế.

Vấn đề đặt ra là mặc dù lãi suất đã giảm, nhiều doanh nghiệp vẫn tỏ ra thận trọng trong việc vay vốn. Những nguyên nhân nào khiến cho các doanh nghiệp bắt buộc phải thận trọng như vậy?

Trước hết, các doanh nghiệp có thể đang phải đối mặt với khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh do tác động của lạm phát và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Sức ép từ lạm phát làm tăng chi phí nguyên vật liệu và chi phí hoạt động, khiến các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi quyết định vay vốn.

Thứ hai, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và khu vực có nhiều biến động, các doanh nghiệp có thể lo ngại về việc mở rộng kinh doanh hoặc đầu tư vào các dự án mới do không chắc chắn về tình hình tài chính và thị trường trong tương lai.

Thứ ba, mặc dù các ngân hàng đã được khuyến khích giảm chi phí và đơn giản hóa thủ tục cho vay, nhưng quá trình đánh giá tín dụng và yêu cầu thế chấp bảo đảm vay vốn vẫn có thể là những rào cản đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ tư, một số doanh nghiệp có thể quyết định không vay thêm vốn, mà thay vào đó tập trung vào việc tối ưu hóa nguồn lực hiện có, cải thiện hiệu quả hoạt động và giảm nợ để duy trì sự ổn định tài chính.

Do đó, việc các doanh nghiệp không mặn mà với vay mới, ngay cả khi lãi suất giảm, có thể phản ánh một sự thận trọng chung trong bối cảnh kinh tế hiện tại. Những lo ngại này đòi hỏi các ngân hàng và cơ quan quản lý phải tiếp tục tìm kiếm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp một cách hiệu quả hơn.

Việc các doanh nghiệp không mặn mà vay vốn có thể gây ra một số tác động tiêu cực cho nền kinh tế.

Vốn vay là một nguồn tài chính quan trọng giúp các doanh nghiệp mở rộng hoạt động, đầu tư vào công nghệ mới, và phát triển sản phẩm. Sự thiếu hụt trong hoạt động vay vốn có thể dẫn đến giảm đầu tư và làm chậm lại quá trình tăng trưởng kinh tế, bởi các doanh nghiệp không có đủ nguồn lực để mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc cải tiến công nghệ.

Khi các doanh nghiệp không mở rộng sản xuất - kinh doanh, nhu cầu tuyển dụng mới giảm sẽ ảnh hưởng đến thị trường lao động. Điều này có thể gây ra tình trạng gia tăng thất nghiệp, đặc biệt trong các ngành phụ thuộc nhiều vào đầu tư và tăng trưởng mới.

Doanh nghiệp không phát triển sẽ hạn chế khả năng tăng lương hoặc tuyển dụng, dẫn đến giảm sức mua của người lao động. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến mức tiêu dùng tổng thể trong nền kinh tế.

Khi cả đầu tư và tiêu dùng giảm, tổng cầu trong nền kinh tế cũng giảm theo. Điều này có thể dẫn đến một vòng xoáy tiêu cực, làm chậm lại sự phục hồi kinh tế và thậm chí có thể gây suy thoái kinh tế nếu kéo dài.

Cuối cùng, các biện pháp như giảm lãi suất nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua khuyến khích vay và đầu tư có thể không đạt hiệu quả mong muốn, nếu các doanh nghiệp không sẵn sàng vay vốn. Điều này làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ và đòi hỏi Chính phủ phải có các chính sách hỗ trợ khác.

Trong bối cảnh như vậy, cả Chính phủ và các ngân hàng có thể cần đánh giá lại, điều chỉnh các chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn một cách an toàn và hiệu quả; đồng thời tìm kiếm các biện pháp hỗ trợ khác để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Dưới đây là một số giải pháp cụ thể mà Chính phủ và các ngân hàng có thể tham khảo:

Thứ nhất, tiếp tục giảm lãi suất và đơn giản hóa các thủ tục vay vốn để làm cho vay mượn hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp và cá nhân. Điều này bao gồm cả việc cải thiện quy trình xét duyệt vay và giảm thời gian chờ đợi để nhận được vốn vay. (Tất nhiên, việc hạ lãi suất để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng có thể là một bài toán khó giải khi cân nhắc đến ảnh hưởng của nó đối với tỷ giá hối đoái, đặc biệt là đối với đồng đô la Mỹ).

Thứ hai, thay đổi chính sách tín dụng để phù hợp hơn với nhu cầu thực tế của thị trường, chẳng hạn như tăng hạn mức cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên hoặc có tiềm năng tăng trưởng cao, như: Công nghệ, xuất khẩu và sản xuất bền vững.

Thứ ba, Chính phủ có thể tăng cường đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng, điều này không chỉ tạo ra việc làm mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp liên quan đến các dự án này vay vốn để mở rộng hoạt động.

Thứ tư, các ngân hàng có thể phát triển các sản phẩm tài chính đặc biệt dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm giải quyết các rào cản tài chính mà các doanh nghiệp này thường gặp phải.

Thứ năm, cải thiện môi trường kinh doanh tổng thể thông qua cải cách thủ tục hành chính, tăng cường bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và giảm bớt các rào cản pháp lý, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn lực cần thiết để phát triển.

Thứ sáu, thúc đẩy sử dụng công nghệ trong các dịch vụ tài chính, như fintech và ngân hàng số, để cải thiện khả năng tiếp cận tài chính, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn hoặc ít được phục vụ.

Thứ bảy, các ngân hàng cần tăng cường hệ thống giám sát và đánh giá rủi ro để đảm bảo rằng các khoản vay được cấp dựa trên cơ sở hiệu quả kinh tế vững chắc, từ đó duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính.

Các biện pháp nói trên cần được thực hiện một cách cân nhắc và phối hợp giữa Chính phủ, NHNN các ngân hàng thương mại để đảm bảo tăng trưởng tín dụng ổn định và bền vững, đồng hợp để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng tín dụng và phát triển kinh tế./.

               

Cùng chuyên mục
  • Kinh tế Việt Nam sau 49 năm thống nhất
    25 ngày trước Góc nhìn
    (BKTO) - Đáng tự hào là hành trình phát triển kinh tế của Việt Nam sau 49 năm thống nhất đất nước! Trong khoảng thời gian đó, đặc biệt từ khi công cuộc Đổi mới bắt đầu vào năm 1986, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế phát triển năng động. Điều đáng nói là chúng ta đã bắt đầu những cải cách kinh tế vượt qua khỏi hệ chuẩn Xô Viết, ngay cả khi Liên Xô còn chưa bị tan rã.
  • Xung đột Israel – Iran: Cần tháo ngòi kho thuốc súng
    một tháng trước Góc nhìn
    (BKTO) - Cuộc tấn công của Iran vào Israel vào ngày 13/4, trong đó Iran được cho là đã phóng khoảng 300 tên lửa và máy bay không người lái, phần lớn đã bị đánh chặn chỉ gây ra thiệt hại nhỏ, là một bước leo thang đáng kể trong cuộc xung đột giữa hai quốc gia này.
  • Thị trường vàng và Nghị định số 24/2012/NĐ-CP
    một tháng trước Góc nhìn
    (BKTO) - Thị trường vàng trong nước đã và đang ghi nhận những động thái đột phá lạ, với nhiều cái nhất chưa từng có: Giá vàng lập đỉnh cao nhất mọi thời đại; chênh lệch cao nhất giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế, giá vàng SJC với giá vàng các thương hiệu khác, cũng như giá vàng bán ra - mua vào; biên độ tăng - giảm giá trong ngày lớn nhất từ trước đến nay...
  • Chi phí tuân thủ pháp luật
    một tháng trước Góc nhìn
    (BKTO) - Thúc đẩy cải cách thể chế để tạo ra đột phá, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Chính phủ đã tổ chức 24 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật. Mới gần hết quý I/2024, Chính phủ đã tổ chức 2 phiên họp chuyên đề, xem xét, cho ý kiến đối với 14 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết.
  • Thước đo và động lực từ thương hiệu quốc gia
    2 tháng trước Góc nhìn
    (BKTO) - Thương hiệu quốc gia (National Brand) được hiểu là tên, các ký hiệu, khẩu hiệu, biểu tượng, thiết kế hoặc là tổng hợp những yếu tố trên với mục đích xác định hàng hóa hay dịch vụ của một hay một nhóm nhà cung cấp để phân biệt với những đối thủ cạnh tranh khác. Một thương hiệu quốc gia mạnh mẽ không chỉ có lợi ích cho doanh nghiệp (DN) xuất khẩu, mà còn tạo ra một hình ảnh tích cực về quốc gia trên thị trường thế giới, góp phần tăng cường lòng tin từ phía các đối tác thương mại, đầu tư nước ngoài và du khách quốc tế.
Để doanh nghiệp có thể vay vốn