Gỡ “rào cản” để gia tăng thu hút dòng vốn ngoại

(BKTO) - Các doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương trong việc cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên môi trường kinh doanh vẫn còn không ít những trở ngại, đòi hỏi cần tiếp tục có những động thái cải cách mạnh mẽ hơn để phục vụ cộng đồng DN trong đó có các DN FDI một cách tốt hơn.

fdi.jpg
Các doanh nghiệp FDI cho rằng Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh. Ảnh minh họa: S.T

Nhiều rào cản ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư, kinh doanh

Phản ánh những vướng mắc, bất cập còn tồn tại của môi trường kinh doanh Việt Nam, tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp mặt cộng đồng DN FDI và Diễn đàn DN Việt Nam thường niên mới diễn ra, ông Joseph Uddo - Chủ tịch Hiệp hội DN Hoa Kỳ (AmCham) tại Việt Nam cho biết, các thành viên Amcham vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình đầu tư do sự chậm trễ trong việc phê duyệt thủ tục cấp phép, chấp thuận đầu tư và gánh nặng thủ tục hành chính vẫn còn khá lớn. Bên cạnh đó, mặc dù Chính phủ thúc đẩy số hóa nhưng nhiều thủ tục hành chính như báo cáo, đăng ký, thông báo vẫn phải nộp bằng giấy hoặc thậm chí bằng cả hình thức giấy và điện tử.

Ngoài ra, các nhà sản xuất quốc tế vẫn gặp khó khăn trong việc bán các cơ sở mà họ đã xây dựng, đầu tư và những người mua tiềm năng gặp khó khăn trong việc xin được phê duyệt, thực hiện các giao dịch mua cũng như xin giấy phép kinh doanh cho các dự án này. Trong khi đó, ông Joseph Uddo cho rằng một thị trường chuyển nhượng các dự án hiện hữu hiệu quả sẽ là một yếu tố hỗ trợ quan trọng cho các dự án đầu tư vào Việt Nam.

Không chỉ quan ngại về các thủ tục cấp phép đầu tư, các thủ tục khác như thủ tục phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường… cũng được các DN FDI phản ánh còn khá phức tạp. Ông Hong Sun - Chủ tịch Hiệp hội DN Hàn Quốc (KoCham) tại Việt Nam cho biết, đối với các DN sản xuất đầu tư vào Việt Nam, theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, từ ngày 01/01/2022, thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường được thay đổi từ cấp tỉnh thành cấp cơ quan Trung ương (Bộ Tài nguyên và Môi trường) tùy theo khả năng gây ô nhiễm môi trường và công suất. Điều này khiến thời gian và chi phí xin phê duyệt báo cáo tác động môi trường gia tăng, tạo nên gánh nặng cho DN.

Ông Hong Sun cũng cho biết, phụ lục được ban hành kèm theo Nghị định số 08/2022/NĐ-CP có quy định rõ danh mục loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tuy nhiên trên thực tế ngay cả dự án sản xuất sản phẩm không gây ô nhiễm môi trường (linh kiện, thiết bị điện, điện tử) nếu có
công suất vượt quá mức tiêu chuẩn (từ 1.000 tấn sản phẩm/năm hoặc 01 triệu thiết bị, linh kiện/năm trở lên) thì cấp có thẩm quyền phê duyệt cũng không phải là cấp tỉnh mà là Bộ Tài nguyên và Môi trường. 

“Hiện nay, thủ tục đã thuận lợi hơn so với giai đoạn đầu mới thực thi quy định, tuy nhiên thực tế là thời gian đánh giá tác động môi trường đang mất ít nhất từ 2 - 3 tháng (60 - 90 ngày), hồ sơ trình xin phê duyệt cũng tăng khoảng 50 - 60% so với số lượng hồ sơ để xin phê duyệt ở cấp tỉnh. Điều này đang là trở ngại cho hoạt động đầu tư của các DN FDI” - ông Hong Sun cho biết.

20240319_115125.jpg
Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp mặt cộng đồng DN FDI và Diễn đàn DN Việt Nam thường niên diễn ra ngày 19/03, tại Hà Nội. Ảnh: D.THIỆN

Cần đảm bảo việc cung cấp điện ổn định

Một trong những vấn đề quan trọng khác cũng được các DN, hiệp hội DN nước ngoài tại Việt Nam đặc biệt quan tâm đó là tình trạng thiếu điện và đây được coi là một rào cản lớn khiến các nhà đầu tư nước ngoài chần chừ trong việc đưa ra quyết định đầu tư vào Việt Nam.

Năm 2023, Việt Nam đã thu hút được 36,6 tỷ USD tổng vốn FDI đăng ký, tăng 32,1% so với năm 2022.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Hong Sun cho biết, thời điểm tháng 6 - 7/2023, nhiều khu vực ở miền Bắc Việt Nam như Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Phú Thọ, Vĩnh Phúc... xảy ra tình trạng bị cắt điện do thiếu điện. Một số khu công nghiệp cũng tiến hành cắt điện có báo trước với tần suất khoảng 1 - 2 lần/tuần.

Chính phủ Việt Nam cũng nhận thức được rằng, tình trạng thiếu điện gây trở ngại lớn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao năng lực cạnh tranh sản xuất của DN Việt Nam, theo đó đã có nhiều nỗ lực nhằm đề ra giải pháp. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó có thể giải quyết được trong thời gian ngắn.

Cũng theo ông Hong Sun, các DN Hàn Quốc mong muốn đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là các DN công nghệ cao như trong lĩnh vực chất bán dẫn, cho rằng hiện tượng thiếu điện của Việt Nam là một trong những rào cản lớn khiến họ chần chừ trong việc đưa ra quyết định đầu tư.

“Các công ty Hàn Quốc hiện rất quan tâm đến các ngành sử dụng nhiều công nghệ, phù hợp với xu hướng thân thiện môi trường như điện mặt trời áp mái. Tuy nhiên, họ ngần ngại đầu tư do việc cung cấp điện không ổn định và các quy định pháp luật liên quan chưa rõ ràng” - ông Hong Sun phản ánh.

Do đó, KoCham đề nghị Chính phủ Việt Nam có phương án cung cấp điện thông suốt trong các khu công nghiệp để các DN FDI, trong đó có DN Hàn Quốc, có thể duy trì hoạt động sản xuất ổn định.

Cũng nhấn mạnh đến việc cần đảm bảo duy trì nguồn cung ứng điện, ông Joseph Uddo cho biết, nếu không có nguồn điện ổn định, giá cả phải chăng và nguồn cung cấp điện bền vững, nhiều mục tiêu sẽ khó có thể đạt được.

Mặt khác, một trong các nhu cầu chính của tất cả các DN nội địa cũng như các nhà đầu tư nước ngoài đó là sự ổn định của nguồn cung cấp năng lượng và khả năng tiếp cận năng lượng tái tạo một cách nhanh chóng, thuận tiện.

Tuy nhiên, theo ông Joseph Uddo, động lực về phía cung và cầu nguồn điện rất phức tạp, do đó, cách tiếp cận hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư là điều cần thiết để phát triển nguồn điện bền vững, đáng tin cậy và có giá cả phải chăng. Việt Nam có thể thu hút nguồn tài chính toàn cầu nhờ hệ thống quản lý năng lượng hiệu quả.

“Chúng tôi khuyến khích tiếp tục đối thoại giữa Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các bên liên quan trong khu vực tư nhân để có thể đưa ra các giải pháp khả thi trong ngắn hạn và dài hạn, trong đó bao gồm việc thúc đẩy phê duyệt các dự án khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) quy mô lớn nhằm hỗ trợ cung ứng nguồn cung năng lượng, để Việt Nam có thể đảm bảo an ninh năng lượng” - Chủ tịch AmCham đề xuất.

AmCham cũng khuyến nghị Chính phủ Việt Nam nên xem xét điều chỉnh quy định về các Thỏa thuận mua bán điện (PPA) theo tiêu chuẩn quốc tế, để tạo điều kiện cho các tổ chức đa phương và tổ chức tài chính phát triển cho vay các dự án lớn về chuyển đổi năng lượng và lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Đưa thêm khuyến nghị, ông Muto Shiro - Phó Chủ tịch Hiệp hội DN Nhật Bản (JCCI) tại Việt Nam cho rằng, cần phải bảo đảm các nguồn phụ tải nền để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo.

Theo ông Muto Shiro, nhiệt điện khí, LNG là nguồn năng lượng chuyển tiếp để Việt Nam từng bước mở rộng công suất phát điện, giảm phát thải carbon. Đồng thời, nguồn điện này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định hoạt động của lưới điện nhằm mở rộng hơn nữa công suất năng lượng tái tạo.

Tuy vậy, nhiệt điện khí, LNG lại nằm ngoài phạm vi của Thoả thuận hợp tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), vốn hướng tới mục tiêu bảo đảm hợp tác trong việc chuyển dịch năng lượng phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Do đó, ông Muto Shiro cho biết, Nhật Bản mong muốn góp phần hiện thực hóa các mục tiêu về phát triển nhiệt điện khí và LNG theo chủ trương của Chính phủ Việt Nam đề ra trong Quy hoạch điện VIII./.

Cùng chuyên mục
Gỡ “rào cản” để gia tăng thu hút dòng vốn ngoại