
Phát huy vai trò của Quỹ Bảo vệ môi trường
Từ kết quả giám sát chuyên đề của Quốc hội về công tác BVMT, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn TP Hải Phòng) chỉ rõ, một trong những “điểm nghẽn” trong các quy định liên quan đến nguồn lực tài chính cho công tác BVMT là các quỹ BVMT chưa phát huy hiệu quả.
Hiện nay, cả nước đã có Quỹ BVMT Việt Nam ở Trung ương và nhiều Quỹ BVMT cấp tỉnh, được thành lập theo Điều 151 Luật BVMT năm 2020, tuy nhiên, hiệu quả hoạt động còn hạn chế.
“Phần lớn các quỹ có vốn điều lệ nhỏ, chỉ vài chục tỷ đồng, nguồn thu chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước, trong khi khả năng huy động từ doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức quốc tế còn rất thấp. Nhiều quỹ địa phương chưa thực hiện được đúng chức năng hỗ trợ đầu tư, cho vay ưu đãi, tài trợ các dự án xử lý ô nhiễm hay cải tạo môi trường làng nghề” - đại biểu Nga cho hay.
Theo đại biểu, nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là do thiếu khung pháp lý thống nhất về mô hình tổ chức, cơ chế tài chính và phương thức hoạt động. Hiện Chính phủ vẫn chưa ban hành Nghị định thay thế Quyết định số 78/2014/QĐ-TTg về tổ chức và hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam - văn bản đã ban hành hơn 10 năm, không còn phù hợp với bối cảnh mới.
Do đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định mới theo hướng thống nhất cơ chế vận hành các quỹ cấp tỉnh, cho phép Quỹ được tiếp nhận tài trợ, phát hành trái phiếu xanh và hợp tác với khu vực tư nhân trong đầu tư hạ tầng môi trường. Đồng thời, mở rộng thẩm quyền cho Quỹ được cho vay ưu đãi, bảo lãnh tín dụng hoặc đầu tư đồng tài trợ với các dự án BVMT có khả năng hoàn vốn.
Cùng quan tâm đến vấn đề này, đại biểu Lê Thanh Hoàn (Đoàn Thanh Hóa) đề nghị Chính phủ cần ban hành ngay văn bản quy định về vốn điều lệ và vị trí pháp lý, mô hình tổ chức, hoạt động của Quỹ BVMT cấp tỉnh. Đồng thời, rà soát trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công; trước mắt đưa nguyên tắc xử lý ngay trong Nghị quyết giám sát để đảm bảo địa vị pháp lý cho thống nhất đối với Quỹ BVMT, để Quỹ thực sự là tổ chức tài chính nhà nước, phát huy vai trò công cụ tài chính của Nhà nước để thúc đẩy các dự án BVMT, dẫn dắt đầu tư xanh.
Tăng chi ngân sách cho bảo vệ môi trường
Nhận thấy tỷ lệ chi ngân sách cho BVMT hiện nay còn thấp so với yêu cầu thực tiễn, nhiều đại biểu Quốc hội cũng đề nghị cần tăng tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho công tác này.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, trong bối cảnh chúng ta đang đối mặt với ô nhiễm rác thải sinh hoạt, công nghiệp, làng nghề và biến đổi khí hậu, cần nâng tỷ trọng chi ngân sách cho BVMT lên tối thiểu tăng 30% so với hiện tại.
BVMT không phải là “cái giá phải trả cho phát triển”, mà là điều kiện tiên quyết của phát triển bền vững và chất lượng sống của nhân dân. Nếu chúng ta hoàn thiện thể chế, mở rộng hợp tác công - tư, và đầu tư ngân sách tương xứng thì môi trường sẽ trở thành nền tảng và động lực cho tăng trưởng xanh, chứ không phải rào cản.
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga
Dẫn chứng số liệu từ Báo cáo của Bộ Tài chính, đại biểu cho biết, tỷ lệ chi ngân sách trung ương cho sự nghiệp BVMT trong 3 năm qua chỉ đạt: 0,096% năm 2022, 0,092% năm 2023 và 0,084% năm 2024. Ở cấp địa phương, tỷ lệ này dao động từ 0,91% đến 1,3% tùy từng tỉnh, thành, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga cho rằng, nếu chúng ta không đầu tư mạnh mẽ hơn ngay từ bây giờ, chi phí khắc phục hậu quả môi trường trong tương lai sẽ gấp hàng chục lần chi phí phòng ngừa hiện nay. Do đó, việc nâng tỷ trọng chi ngân sách cho BVMT không chỉ là đề xuất kỹ thuật, mà là cam kết chính trị mạnh mẽ, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước với nhân dân, với thế hệ tương lai.

Đại biểu Đào Lê An Xuân (Đoàn Đắk Lắk) cũng đề nghị có lộ trình tăng mức chi từ ngân sách nhà nước cho BVMT nói chung và xử lý nước thải sinh hoạt nói riêng với mức đề xuất từ 1,5 đến 2% tổng chi ngân sách nhà nước. Trong đó, bố trí thỏa đáng từ nguồn thu thuế, phí BVMT theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý; ưu tiên bố trí nguồn ngân sách nhà nước, vốn viện trợ để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống thu gom và mạng lưới đấu nối; đồng thời rà soát, hoàn thiện cơ chế định giá dịch vụ, tính đúng, tính đủ chi phí, có lộ trình điều chỉnh phù hợp và minh bạch.
Theo số liệu tại các báo cáo quyết toán ngân sách năm 2021, 2022 và báo cáo năm 2023 do Sở Tài chính Quảng Ninh cung cấp, tổng thu phí BVMT và thuế BVMT giai đoạn 2021-2023 đạt 5.973,064 tỷ đồng. Trong khi đó, chi cho công tác BVMT và ứng phó với BĐKH chỉ đạt 2.261,769 tỷ đồng, tương đương 38% tổng thu. Như vậy, còn khoảng 3.711 tỷ đồng (62%) được hòa vào ngân sách chung để chi cho các nhiệm vụ khác. Trong khi đó, nhu cầu chi cho phòng ngừa, hạn chế, kiểm soát ô nhiễm môi trường do nước thải, xử lý chất thải rắn công nghiệp tại địa phương còn rất lớn.
Trích kết quả kiểm toán chuyên đề về việc quản lý, sử dụng kinh phí BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2023 tại tỉnh Quảng Ninh
Đại biểu Lê Thanh Hoàn phân tích, số chi ngân sách cho lĩnh vực BVMT và ứng phó biến đổi khí hậu khoảng 51% so với số thu từ thuế BVMT. Sự chênh lệch lớn này cho thấy nguồn thu thuế, phí BVMT chưa được dùng để đầu tư một cách có hiệu quả vào các hoạt động BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Vì vậy, đại biểu đề nghị cần có nhiệm vụ và giải pháp đột phá cụ thể hơn nhằm thiết lập cơ chế pháp lý đảm bảo nguyên tắc tái đầu tư nguồn thu này một cách thỏa đáng và minh bạch trở lại; cũng như áp thuế, phí BVMT lũy tiến theo mức độ gây ô nhiễm thay vì thu cào bằng.
“Chính phủ rà soát và hoàn thiện quy định để đảm bảo nguồn thu từ thuế, phí bảo vệ môi trường phải được tái đầu tư thỏa đáng (có thể là 80% tối thiểu) trở lại cho hạ tầng và các hoạt động bảo vệ môi trường thiết yếu, đặc biệt là đầu tư hạ tầng xử lý chất thải rắn và nước thải đô thị” - đại biểu đề xuất.
Khắc phục bất cập trong phân bổ, sử dụng vốn
Đại biểu Lê Thanh Hoàn cũng chỉ ra tình trạng kinh phí sự nghiệp bảo vệ môi trường trường từ ngân sách trung ương nhiều năm không được sử dụng hết, dự toán hàng năm bị hủy nhiều (năm 2022 là 453 tỷ đồng, năm 2023 là 285 tỷ đồng và năm 2024 là 321 tỷ đồng).
Việc hủy dự toán cho thấy công tác lập kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước chưa sát với khả năng thực hiện, dẫn đến tình trạng vốn chờ dự án đủ thủ tục. Do đó, Chính phủ cùng với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng quy trình lập kế hoạch và phân bổ vốn đầu tư công chặt chẽ hơn và chịu trách nhiệm giải trình về kinh phí nghiệp vụ môi trường bị hủy dự toán hàng năm - đại biểu đề xuất.

Liên quan đến vấn đề này, trước đó, qua kiểm toán công tác quản lý, sử dụng kinh phí BVMT và ứng phó biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2023, Kiểm toán nhà nước cũng chỉ ra thực trạng: Dự toán lập chưa sát thực tế và nguồn lực có hạn của ngân sách nhà nước dẫn đến dự toán thực tế được phân bổ thấp hơn nhiều so với nhu cầu đề xuất. Một số nhiệm vụ lập dự toán chưa tuân thủ biểu mẫu, nội dung theo hướng dẫn. Dự toán giao, phân bổ muộn, các đơn vị không kịp triển khai trong năm dẫn đến phải chuyển nguồn toàn bộ kinh phí được giao bổ sung. Tình trạng lập dự toán chưa sát với nhu cầu thực tế cũng dẫn đến kinh phí không sử dụng hết, phải hủy dự toán cuối năm. Kinh phí thực hiện hằng năm không đạt dự toán giao…
Trong khi đó, đại biểu Lý Anh Thư (Đoàn An Giang) nêu lên thực tế hệ thống hạ tầng kỹ thuật BVMT hiện nay còn thiếu đồng bộ, manh mún và chưa được ưu tiên đầu tư đúng mức; nguồn vốn phân bổ nhỏ lẻ, kéo dài; quy hoạch quỹ đất và cơ chế thu hút đầu tư còn bất cập. Không ít công trình sau đầu tư thiếu kinh phí vận hành, công nghệ lạc hậu dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, thậm chí ngừng hoạt động.
Từ trạng này, đại biểu đề nghị cần rà soát, thống kê các dự án hạ tầng môi trường chậm tiến độ, thiếu vốn để có phương án giải quyết dứt điểm về vốn, quỹ đất, quy hoạch và nhà đầu tư, đồng thời tạo cơ chế đặc thù thu hút nguồn nhân lực xã hội hóa; khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư, quản lý, vận hành hệ thống xử lý rác thải.
Đối với công trình đã hoàn thành cần có cơ chế vận hành, giám sát thường xuyên, khuyến khích áp dụng công nghệ tiên tiến; giao cho đơn vị chuyên nghiệp hoặc tư nhân quản lý; tránh tình trạng công trình “đắp chiếu” do thiếu kinh phí hoặc năng lực vận hành…
Từ thực trạng được KTNN, Đoàn giám sát cũng như các đại biểu Quốc hội chỉ ra, đặt ra yêu cầu Chính phủ cần có những giải pháp đột phá, cấp bách hơn trong huy động và sử dụng nguồn lực cho công tác BVMT.
