
Ngày 22/10, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị công bố Đề án "Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050".
Ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) - cho biết: Đề án là cơ sở pháp lý quan trọng để ngành trồng trọt và bảo vệ thực vật triển khai đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2025-2030, với tầm nhìn đến năm 2050.
“Với Đề án này, ngành trồng trọt đặt mục tiêu đến năm 2035 sẽ góp phần giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020” - Cục trưởng Huỳnh Tấn Đạt khẳng định.

Về nhiệm vụ, Đề án tập trung vào 6 nhóm chính: chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp vùng sinh thái; áp dụng gói kỹ thuật phát thải thấp; xây dựng mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị; thiết lập hệ thống MRV; nâng cao năng lực, nhận thức và kết nối thị trường cho sản phẩm “Phát thải thấp”.
Theo Đề án, mỗi tỉnh, thành phố sẽ triển khai ít nhất 1 - 2 mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải có thể nhân rộng, thí điểm tối thiểu 15 mô hình canh tác đủ điều kiện phát triển tín chỉ carbon. Hệ thống dữ liệu phát thải sẽ được đồng bộ với Hệ thống đăng ký quốc gia.
Theo đó, Đề án sẽ được thực hiện thông qua 7 nhóm giải pháp, bao gồm: tăng cường năng lực quản lý nhà nước, khoa học - công nghệ, chuyển giao kỹ thuật; tổ chức sản xuất và chuỗi giá trị…
Đặc biệt, để thực hiện Đề án, ngành sẽ đào tạo tối thiểu 3.000 cán bộ kỹ thuật, khuyến nông, nông dân và doanh nghiệp; xây dựng ít nhất 5 bộ tài liệu truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi sản xuất theo hướng phát thải thấp.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nêu một số vướng mắc, khó khăn có thể gặp phải trong triển khai Đề án, cũng như kế hoạch hành động, giải pháp để thực hiện tốt Đề án.
Đặc biệt, các ý kiến cũng quan tâm đến việc bán tín chỉ carbon thu được từ cây trồng giảm phát thải.

Chia sẻ về những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm Đề án được triển khai hiệu quả, TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy, đại diện Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam, cho rằng, để đạt được mục tiêu giảm 15% phát thải khí nhà kính đến năm 2050, cần lượng hóa rõ ràng các nhiệm vụ và mục tiêu của từng hợp phần trong Đề án.
TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy cũng đề xuất Đề án nên lồng ghép các hoạt động với Chương trình Phát triển bền vững một triệu hecta lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhằm tăng hiệu quả và tính liên kết trong tổ chức thực hiện.
Đối với kế hoạch xây dựng 15 mô hình sản xuất có khả năng tạo tín chỉ carbon, bà Thủy cho rằng cần xác định rõ quy mô, địa bàn và chỉ tiêu định lượng để bảo đảm tính khả thi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực tế. Bên cạnh đó, các mô hình thí điểm sản xuất giảm phát thải nên được thiết kế theo đặc thù vùng sinh thái Bắc - Trung - Nam, trong đó tập trung vào nhóm cây trồng chủ lực nhằm phát huy tối đa tiềm năng giảm phát thải và khả năng nhân rộng về sau.

Ông Vũ Ngọc Châu - cán bộ cao cấp quản lý dự án nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) - cho biết, nhiều nội dung trong Đề án trồng trọt giảm phát thải mà Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng có sự tương đồng với các chương trình, dự án mà ADB triển khai tại Việt Nam, như các dự án đầu tư thủy lợi hay Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo ông Châu, ADB đặc biệt quan tâm đến tín chỉ carbon, loại “hàng hóa mới” có thể được tạo ra từ việc giảm phát thải trong sản xuất nông nghiệp. ADB sẵn sàng tham gia mua tín chỉ carbon nếu Việt Nam hình thành được cơ chế giao dịch minh bạch, có tính khả thi và bền vững. Đây là hướng đi mà ADB xem như bước nối tiếp các khoản đầu tư vào hạ tầng và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp khu vực Đông Nam Á.
Hiện, ADB đang chuẩn bị phê duyệt một dự án hỗ trợ kỹ thuật về sản xuất lúa gạo cho khu vực này, trong đó Việt Nam được coi là điểm trọng tâm nhờ lợi thế canh tác và cam kết phát thải ròng bằng 0. Dư địa hợp tác giữa ADB và Đề án trồng trọt giảm phát thải là rất lớn.
Tuy nhiên, đại diện ADB cũng lưu ý rằng để thu hút được các tổ chức tài chính quốc tế, Việt Nam cần sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho thị trường carbon. Khi có khung pháp lý rõ ràng, các đối tác như ADB mới có thể tham gia sâu hơn, không chỉ trong trồng trọt mà cả trong lĩnh vực lâm nghiệp, nơi có tiềm năng lớn về hấp thụ carbon.
Từ thực tiễn hợp tác với ngành nông nghiệp vừa qua, ông Châu cũng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục cải thiện thời gian phê duyệt cơ chế tài chính, góp phần giúp ADB tham gia tích cực hơn vào Đề án./.