Kinh tế số ASEAN: Tiềm năng 1.000 tỷ USD và thách thức

(BKTO) - Báo cáo e-Conomy SEA 2022 , do Google, Temasek và Bain & Company phát hành mới đây đã dự đoán rằng thị trường kinh tế kỹ thuật số tại ASEAN có thể đạt tới 1.000 tỷ USD vào năm 2030. Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản lớn để có thể đạt được mục tiêu này

kinh-te-so.jpg
Nền kinh tế kỹ thuật số của Đông Nam Á được đánh giá có nhiều tiềm năng tăng trưởng - Ảnh minh họa

Tiềm năng 1.000 tỷ USD

Kinh tế số là nền kinh tế dựa trên công nghệ số và nền tảng số, đang tăng trưởng rất nhanh và trở thành xu hướng phát triển mới trên phạm vi toàn cầu.

Nền kinh tế kỹ thuật số của Đông Nam Á được đánh giá có nhiều tiềm năng tăng trưởng, nhờ sự hỗ trợ bởi các nguyên tắc cơ bản vững chắc bao gồm hơn 460 triệu người tiêu dùng kỹ thuật số, dân số trẻ và am hiểu công nghệ cũng như tỷ lệ sử dụng internet ngày càng tăng. ASEAN là ngôi nhà của hơn 30 “kỳ lân”- những công ty khởi nghiệp trị giá từ 1 tỷ USD trở lên và con số này đang tăng lên.

Theo báo cáo e-Conomy SEA 2022 mới nhất do Google, Temasek và Bain & Company công bố, nền kinh tế kỹ thuật số tại sáu quốc gia trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, được gọi là ASEAN-6, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam dự kiến sẽ tăng trưởng 6% mỗi năm và giá trị của thị trường có thể đạt tới 1.000 tỷ USD vào năm 2030.

Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản lớn để thị trường kinh tế kỹ thuật số tại ASEAN có thể đạt tới 1.000 tỷ USD vào năm 2030, từ sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn cho đến trình độ hiểu biết về kỹ thuật số thấp, có thể khiến khu vực này tiếp tục phải vật lộn với những thách thức có thể kìm hãm sự tăng trưởng.

Thu hẹp khoảng cách về kỹ thuật số giữa các nền kinh tế

kinh-te-so-asean.jpeg
Thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số giữa các nền kinh tế thành viên ASEAN là một thách thức lớn - Ảnh minh họa

Theo báo cáo Chỉ số hội nhập kỹ thuật số ASEAN, nền kinh tế kỹ thuật số của các quốc gia thành viên rất khác nhau. Singapore và Malaysia đạt điểm cao trên cả 6 chỉ số, trong khi Brunei, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam kém ở một hoặc nhiều chỉ số. Campuchia, Lào và Myanmar đạt điểm dưới trung bình đáng kể trên tất cả các chỉ số và có nền kinh tế kỹ thuật số kém phát triển nhất. 

Giới chuyên gia cho rằng, đầu tư nội khối có thể tiếp tục giảm nếu ASEAN không chuyển mình, tạo ra tính cạnh tranh mạnh mẽ trong lĩnh vực kỹ thuật số. Các hiệp định thương mại siêu khu vực giúp giảm các rào cản đầu tư nước ngoài, kéo theo đó là các doanh nghiệp ASEAN có ít động lực hơn khi đầu tư vào các thị trường có nền kinh tế kỹ thuật số chưa trưởng thành, bởi có những lựa chọn thay thế tốt hơn ở ngoài khu vực.

Các nước ASEAN phải nhanh chóng thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số giữa các nền kinh tế thành viên ASEAN nhằm cải thiện môi trường đầu tư nội khối vững chắc hơn. Cùng với đó là phải phân tích các phương thức thay thế để hài hòa hóa các quy định và các biện pháp nhằm đảm bảo sự hài hòa hóa sẽ không quá tốn kém.

Ngoài ra, ASEAN không thể cho phép sự phân chia kỹ thuật số cũng như các chính sách quy định dữ liệu khác nhau gây nguy hiểm cho mục tiêu tạo ra một nền kinh tế kỹ thuật số tích hợp. Đặc biệt, ASEAN cần phải kiên định trong việc đảm bảo tính năng động của tăng trưởng để duy trì vai trò trung tâm và sự phù hợp trong một thế giới hiện hữu nhiều biến động khó lường.

Kenddrick Chan, một thành viên tại Viện Portulans, một viện nghiên cứu độc lập có trụ sở tại Washington, cho rằng để tham gia vào nền kinh tế kỹ thuật số, điều rất quan trọng là phải xây dựng khung pháp lý cơ bản.

Theo ông Chan, lý do đằng sau sự phát triển không đồng đều tại Đông Nam Á là sự phân bổ không đồng đều các lợi ích của nền kinh tế kỹ thuật số và bởi vì các quốc gia khác nhau đang ở các giai đoạn phát triển khung pháp lý khác nhau. Ông Chan cho rằng các nước cần có những ý tưởng hoặc quy định giống nhau để truyền dữ liệu xuyên biên giới.

ASEAN đã đưa ra các chính sách và khuôn khổ quan trọng như Kế hoạch tổng thể kỹ thuật số ASEAN 2025 và Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN 2025, để phác thảo các hành động hướng dẫn hợp tác kỹ thuật số của các chính phủ. Tuy nhiên, theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), những mục tiêu trên sẽ yêu cầu nghiên cứu chi tiết, hoạch định chính sách có tầm nhìn xa và sự ủng hộ đáng kể từ các bên liên quan trong khu vực.

Bên cạnh khung pháp lý, một rào cản nữa có thể kể đến là sự phân chia về kỹ thuật số giữa thành thị và nông thôn trong mỗi quốc gia. Ngoại trừ Singapore, Malaysia và Brunei, các quốc gia Đông Nam Á khác có hơn 40% dân số sống ở khu vực nông thôn, dựa trên ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB). Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ kỹ thuật số làm tăng nguy cơ khiến một số cộng đồng nông thôn bị "bỏ lại phía sau".

Bên cạnh các đó, theo nhiều chuyên gia, mặc dù khu vực ASEAN có tỷ lệ sử dụng Internet cao trên 70% và hầu hết dân số sở hữu điện thoại thông minh, nhưng điều đó không đồng nghĩa với sự hiểu biết về kỹ thuật số. Theo ông Chan, người dân Đông Nam Á không thiếu điện thoại di động. Đối với họ, Internet là điện thoại di động, nhưng vấn đề chính là người dân chịu chi phối bởi mạng xã hội, khi việc sử dụng Internet luôn thông qua các nền tảng mạng xã hội. Do đó, để người dân tham gia vào toàn bộ nền kinh tế kỹ thuật số đòi hỏi phải có sự hiểu biết về kỹ thuật số nhiều hơn nữa.

Cùng chuyên mục
Kinh tế số ASEAN: Tiềm năng 1.000 tỷ USD và thách thức