
Kết quả giải ngân vốn đạt cao
Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) tỉnh Phú Thọ, trong những năm qua, tỉnh đã chủ động rà soát, tổng hợp và phân loại toàn bộ các chương trình, dự án, chính sách đang triển khai trên địa bàn, làm cơ sở xây dựng phương án phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư.
Trong giai đoạn 2021-2025, bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương đã được cân đối, bố trí vốn đối ứng đạt 3.802 tỷ đồng, tương đương 103,42% mức vốn tối thiểu theo quy định. Cùng với đó, nguồn tín dụng huy động đạt khoảng 26.920,944 tỷ đồng; vốn đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp đạt 1.328.502 triệu đồng; đóng góp của cộng đồng, người dân đạt 2.264,725 tỷ đồng…
Tính đến hết ngày 31/10/2025, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 thực hiện các chương trình MTQG trên địa bàn tỉnh đạt 68%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước (51,5%). Tỷ lệ giải ngân vốn sự nghiệp đạt 31,9%, cũng vượt mức bình quân chung cả nước (24,9%).
Từ nguồn vốn các chương trình MTQG, đời sống của người dân trên địa bàn tỉnh từng bước được cải thiện, góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đơn cử, sau 5 năm triển khai Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, toàn tỉnh có 16/85 xã thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn, ra khỏi khu vực III; nhiều chỉ tiêu chủ yếu đã hoàn thành.
Đối với Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững, đến hết năm 2025, toàn tỉnh còn 32.047 hộ nghèo đa chiều, chiếm 3,21% tổng số hộ, giảm 31.793 hộ so với đầu giai đoạn 2021-2025. Toàn tỉnh có 84/133 xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), chiếm 63,2% tổng số xã; 525 khu dân cư đạt chuẩn NTM kiểu mẫu.
Điển hình như tại xã Phùng Nguyên, đến nay, 100% tuyến đường liên xã, liên thôn đã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; hạ tầng y tế, giáo dục, văn hóa được đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thiết yếu và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tỉnh Phú Thọ cũng thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai các chương trình. Qua công tác giám sát, đánh giá tình hình thực hiện các chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025 và năm 2025, Đoàn công tác của Bộ Tài chính chỉ rõ: Công tác xây dựng kế hoạch chưa bám sát đối tượng của từng chương trình, dẫn đến khó khăn trong thực hiện mục tiêu giải ngân. Do không còn đối tượng thụ hưởng theo nguyên tắc, tiêu chí của từng chương trình, tỉnh đã phải đề nghị hoàn trả ngân sách Trung ương 85,743 tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn 2 chỉ tiêu thuộc Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn I (2021-2025) chưa đạt mục tiêu đề ra.
Về nguyên nhân, lãnh đạo Sở NNMT cho biết, quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy đã ảnh hưởng nhất định đến công tác tổ chức, triển khai các chương trình. Đồng thời, kết quả xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh còn có sự chênh lệch giữa các khu vực, đặc biệt là tại các xã miền núi, vùng khó khăn.
Chú trọng giám sát, bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn lực
Theo lãnh đạo tỉnh Phú Thọ, trong quá trình triển khai các chương trình MTQG, địa phương đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Ban Chỉ đạo chương trình MTQG các cấp đã ban hành kế hoạch kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất đối với việc thực hiện các chương trình. Qua kiểm tra, các tồn tại, hạn chế được kịp thời chấn chỉnh; đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách cho giai đoạn tiếp theo.
“Bên cạnh công tác tự kiểm tra, địa phương còn tăng cường phối hợp với các cơ quan của KTNN và Bộ Tài chính trong giám sát, đồng thời nhận được sự hỗ trợ tích cực nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình” - lãnh đạo Sở NNMT tỉnh Phú Thọ cho biết.
Thông qua hoạt động kiểm toán và các khuyến nghị xác đáng, KTNN đã hỗ trợ thiết thực cho công tác quản lý, điều hành của chính quyền địa phương; đồng thời góp phần tăng cường tính minh bạch, hiệu quả trong sử dụng tài chính công và thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững trên địa bàn.
Phó Chủ tịch UBND xã Đà Bắc Đào Đức Kiên
Trên cơ sở nhận diện rõ những tồn tại, vướng mắc, tỉnh Phú Thọ đang rà soát, điều chỉnh định hướng thực hiện các chương trình MTQG theo hướng tập trung, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường phân cấp gắn với trách nhiệm giải trình; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ; đẩy mạnh phối hợp liên ngành và chú trọng phát triển sinh kế bền vững.
Về giải pháp, tỉnh sẽ xây dựng quy hoạch tổng thể và hoàn thiện cơ sở dữ liệu đầy đủ, đồng bộ về hạ tầng, mức độ nghèo và nhu cầu đầu tư theo từng địa bàn. Đây được xem là cơ sở quan trọng nhằm xác định đúng đối tượng, địa bàn cần đầu tư, tránh tình trạng trùng lặp và dàn trải. Đồng thời, gắn trách nhiệm của từng đơn vị với kết quả giải ngân và hiệu quả đầu tư.
Đặc biệt, tỉnh chú trọng việc công khai, minh bạch trong phân bổ và sử dụng vốn. Theo đó, các sở, ngành, địa phương có trách nhiệm niêm yết công khai danh mục dự án, mức hỗ trợ, đối tượng thụ hưởng; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong theo dõi tiến độ giải ngân và cập nhật dữ liệu kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia giám sát.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Minh - Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn (Sở NNMT tỉnh Phú Thọ), để bảo đảm các nguồn lực đầu tư được sử dụng hiệu quả, bên cạnh nỗ lực trong tổ chức triển khai, tỉnh còn tăng cường công tác giám sát, đánh giá; phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và đặc biệt là sự tham gia của KTNN. “Đây là kênh quan trọng giúp bảo đảm nguồn vốn được sử dụng đúng mục tiêu, hạn chế thất thoát, tránh đầu tư chồng chéo”, bà Minh nhấn mạnh.
Theo bà Minh, kết quả kiểm toán đã hỗ trợ địa phương rà soát lại việc phân bổ kinh phí, đánh giá sát hơn hiệu quả các mô hình hỗ trợ sinh kế, kịp thời điều chỉnh những hoạt động chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Qua đó, các nguồn lực đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn.
Từ thực tiễn triển khai tại cơ sở, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Quy Đức Trần Đức Anh cho biết, một trong những điều kiện quan trọng để các chương trình đạt hiệu quả là sự phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành liên quan trong việc rà soát, thống kê, đánh giá điều kiện cụ thể của từng hộ, từng xóm. Đây là căn cứ quan trọng để lựa chọn, triển khai các mô hình sản xuất phù hợp, đồng thời góp phần nâng cao tính minh bạch trong sử dụng nguồn vốn hỗ trợ và tăng cường cơ chế kiểm soát chéo trong giải ngân các nguồn vốn chính sách./.
