Quang cảnh Tọađàm“Trao đổi kinh nghiệm kiểm toán việc thực hiện đặt hàng, đấu thầu dịch vụ công ích”.Ảnh: NGUYỄN LỘC |
Ban hành các định mức, đơn giá còn chậm, chưa phù hợp
Chia sẻ tại Tọa đàm “Trao đổi kinh nghiệm kiểm toán việc thực hiện đặt hàng, đấu thầu dịch vụ công ích”, bà Bùi Thị Minh Ngọc - Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, KTNN - cho biết, Cuộc kiểm toán chuyên đề “Việc thực hiện đặt hàng, đấu thầu cung cấp dịch vụ công/công ích giai đoạn 2019-2021 trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” được thực hiện với mục tiêu tập trung vào 4 loại dịch vụ công/công ích, bao gồm: Dịch vụ quản lý công viên, trồng và quản lý chăm sóc cây xanh, hoa cảnh vỉa hè, đường phố, dải phân cách, vòng xoay; dịch vụ thu gom, phân loại, vận chuyển, xử lý chất thải, vệ sinh công cộng; dịch vụ vận tải công cộng tại các đô thị; dịch vụ thoát nước đô thị, khu dân cư nông thôn tập trung.
Cũng theo bà Ngọc, các KTNN khu vực đã tổ chức thực hiện cuộc kiểm toán chuyên đề trên lồng ghép trong các cuộc kiểm toán ngân sách địa phương, qua đó, các đoàn kiểm toán đã thu được một số kết quả.
BàBùi Thị Minh Ngọc - Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, KTNN - phát biểu.Ảnh: NGUYỄN LỘC |
Cụ thể, về công tác lập, phân bổ và giao dự toán chi dịch vụ công/công ích, qua kiểm toán, các đoàn kiểm toán đã chỉ ra một số đơn vị xác định nội dung, khối lượng công việc thực hiện làm cơ sở lập dự toán các dịch vụ công/công ích còn chưa đảm bảo các căn cứ hợp lý, thiếu cơ sở, không thuyết minh rõ được các nội dung công việc; giao dự toán đối với hoạt động giá dịch vụ công/công ích đối với một số hạng mục địa phương chỉ căn cứ vào khối lượng thực tế, chưa căn cứ vào định mức đơn giá do tỉnh chưa ban hành.
Chia sẻ thêm, ông Nguyễn Minh Trí - Phó Trưởng phòng Kiểm toán ngân sách 3, KTNN khu vực IV - cho biết, liên quan đến việc ban hành định mức, đơn giá dịch vụ công/công ích, kết quả kiểm toán cho thấy một số địa phương chậm ban hành đơn giá hoặc các hướng dẫn về hệ số điều chỉnh nhân công và máy thi công; phê duyệt lộ trình, cự ly bình quân thu gom, vận chuyển khối lượng chất thải rắn sinh hoạt không hợp lý (như thu gom lòng vòng qua nhiều điểm tập kếtlàm tăng quãng đường và tăng đơn giá); ủy quyền cho cấp huyện, thị trấn ban hành đơn giá phù hợp với điều kiện địa phương nhưng cấp có thẩm quyền không hướng dẫn chi tiết dẫn đến không nhất quán với định mức dự toán và các chế độ, chính sách áp dụng trên từng địa bàn.
Bên cạnh đó, một số địa phương lập đơn giá một số dịch vụ công ích chưa phù hợp với quy định của Bộ Xây dựng. Ngoài ra, đơn giá ban hành còn áp dụng một số chế độ, chính sách chưa phù hợp với quy định hiện hành như: Áp dụng lương tối thiểu vùng khi xây dựng chi phí nhân công; áp dụng phụ cấp độc hại, nguy hiểm hoặc phụ cấp lưu động, phụ cấp ngày nghỉ lễ tết cho tất cả các dịch vụ công ích; tính tiền lương làm ca đêm (tăng thêm 30%) bao gồm cả các khoản phụ cấp theo lương không phù hợp quy định; áp sai bậc thợ bình quân đối với từng vị trí công tác…
Ông Mai Văn Quang - Phó Kiểm toán trưởng, KTNN khu vực XI - cho biết thêm, nghị quyết của hội đồng nhân dân một số địa phương về giao dự toán chi sự nghiệp môi trường không rõ ràng; các quy định về quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đối với dịch vụ công ích chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ như: Các địa phương chưa có quy định về tần suất thực hiện của từng công việc; định mức chi phí chung chưa được ủy ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể cho từng địa bàn. Ngoài ra, một số địa phương ban hành định mức một số nội dung công việc chưa có trong định mức do Trung ương ban hành chưa kịp thời…
Sai sót trong lựa chọn, ký hợp đồng với nhà thầu cung ứng dịch vụ công ích
Ông Phạm Hồng Thái - Phó Trưởng phòng Ngân sách địa phương, Vụ Tổng hợp, KTNN - cho biết, bên cạnh những hạn chế trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự toán gói thầu dịch vụ công/công ích, qua kiểm toán, các đoàn kiểm toán cũng chỉ ra trong công tác lựa chọn, ký hợp đồng với nhà thầu cung ứng dịch vụ công ích cũng còn những sai sót.
Ông PhạmHồng Thái - Phó Trưởng phòng Ngân sách địa phương, Vụ Tổng hợp, KTNN - phát biểu. Ảnh: NGUYỄN LỘC |
Cụ thể, một số địa phương không thực hiện các thủ tục lựa chọn nhà thầu theo quy định của Luật Đấu thầu; hoặc thực hiện đặt hàng đối với một số dịch vụ công/công ích chưa đảm bảo điều kiện “chỉ có một nhà cung cấp đăng ký thực hiện”; đặt hàng với đơn vị sự nghiệp công lập chưa có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công phù hợp với hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công được giao theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Ngoài ra, còn có trường hợp địa phương thực hiện thương thảo, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu trước khi được phân bổ dự toán để thực hiện gói thầu.
Chia sẻ thêm các phát hiện kiểm toán, ông Mai Văn Tân - Trưởng Phòng Tổng hợp, KTNN khu vực XIII - cho biết, đối với việc thực hiện công tác thanh toán, quyết toán kinh phí, kết quả kiểm toán phát hiện tại một số đơn vị khi thực hiện thủ tục thanh toán, quyết toán kinh phí cho nhà thầu đã áp sai đơn giá, định mức, hoặc thanh toán vượt khối lượng thực tế thi công. Nhiều trường hợp hồ sơ thanh toán, quyết toán sơ sài, không đầy đủ các hồ sơ, tài liệu chứng minh khối lượng, chất lượng dịch vụ công/công ích đã thực hiện, ngoài biên bản nghiệm thu đã ký giữa các bên.
Ngoài ra, một số địa phương còn để xảy ra tình trạng nợ đọng khối lượng dịch vụ công/công ích đã thực hiện, được nghiệm thu, do khối lượng thực hiện tính theo định mức, đơn giá hiện hành lớn hơn kinh phí đã được bố trí trong dự toán chi ngân sách của huyện, thị xã, thành phố.
Ông Nguyễn Tiến Phước - Phó Kiểm toán trưởng KTNN khu vực VIII - cho biết thêm, tại một số địa phương, việc nghiệm thu, thanh toán chỉ căn cứ vào khối lượng theo dự toán được duyệt và hợp đồng đã ký trong khi dự toán lập, thẩm định và phê duyệt còn thiếu căn cứ để xác định khối lượng. Hồ sơ nghiệm thu thiếu nhật ký thi công, nhật ký giám sát làm căn cứ để xác định khối lượng thực hiện hợp đồng làm cơ sở thanh quyết toán, dẫn đến tiềm ẩn nhiều sai sót có thểxảy ra, gây lãng phí ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, một số địa phương khi nghiệm thu thanh quyết toán chưa rà soát và đối chiếu lại đơn giá, định mức, chưa kiểm tra đo đạc lại khối lượng thực tế thực hiện của các nhà thầu, dẫn đến thanh toán cho các nhà thầu vượt định mức, vượt khối lượng so với thực tế thực hiện.../.