Kết quả biểu quyết thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)- Ảnh: quochoi.vn |
Trước khi thông qua Dự thảo Luật, Quốc hội đã nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi).
Chủ nhiệm Lê Thị Nga cho biết, về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm giải trình không hợp lý về nguồn gốc, tại tất cả các phiên thảo luận về nội dung này, ý kiến các đại biểu Quốc hội, các cơ quan hữu quan còn rất khác nhau và phân tán. Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với phương án xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm giải trình không hợp lý về nguồn gốc thông qua trình tự xem xét, giải quyết tại Tòa án; nhiều ý kiến tán thành với phương án xử lý thông qua thu thuế; nhiều ý kiến đề nghị giữ như quy định của pháp luật hiện hành, theo đó tài sản, thu nhập này sẽ bị xử lý khi cơ quan có thẩm quyền chứng minh được là do phạm tội, vi phạm pháp luật mà có.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm giải trình không hợp lý về nguồn gốc là vấn đề mới, lần đầu tiên chúng ta đặt vấn đề xử lý đối với loại tài sản, thu nhập này. Trong khi tài sản, thu nhập của người dân, cán bộ, công chức, viên chức được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, Nhà nước ta chưa kiểm soát được thu nhập của toàn xã hội và pháp luật chưa quy định đánh thuế đối với tài sản thì việc xác định tính hợp lý của nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm để đánh thuế hoặc thu hồi là vấn đề rất phức tạp. Mặt khác, đây là vấn đề lớn, có liên quan đến quyền sở hữu tài sản- quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp nên cần được cân nhắc hết sức kỹ lưỡng.
Theo Chủ nhiệm Lê Thị Nga, để bảo đảm thận trọng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Tổng Thư ký Quốc hội gửi phiếu thăm dò ý kiến đại biểu Quốc hội về nội dung này. Kết quả, có 209/456 ý kiến đại biểu, chiếm 43,09% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành phương án xem xét, giải quyết tại Tòa án; 156/456 ý kiến đại biểu, chiếm 32,16% tổng số đại biểu tán thành với phương án thu thuế; 40 ý kiến đại biểu đề nghị giữ như quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành và 51 đại biểu không thể hiện chính kiến hoặc có ý kiến khác.
“Như vậy, không có phương án nào nhận được sự ủng hộ của quá 50% tổng số đại biểu Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, do chưa đạt được sự đồng thuận, thống nhất cao nên nội dung này cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khi đã đủ điều kiện chín muồi, phù hợp thực tiễn, bảo đảm tính khả thi thì mới nên quy định vào Luật”- Chủ nhiệm Lê Thị Nga nêu rõ.
Từ các lý do trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho phép chưa bổ sung quy định về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm giải trình không hợp lý về nguồn gốc vào dự thảo Luật mà thực hiện như quy định của pháp luật hiện hành. Theo đó, nếu cơ quan có thẩm quyền chứng minh được tài sản do tham nhũng mà có thì tiến hành thu hồi hoặc tịch thu theo quy định của pháp luật tương ứng; nếu chứng minh được có dấu hiệu trốn thuế thì xử lý theo quy định của pháp luật về thuế. Đồng thời, Điều 31 của Dự thảo Luật đã bổ sung quy định về chuyển vụ việc có dấu hiệu vi phạm được phát hiện trong quá trình kiểm soát tài sản, thu nhập đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết để tăng cường việc xử lý đối với loại tài sản, thu nhập này.
Đối với người có nghĩa vụ kê khai mà kê khai không trung thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì dự thảo Luật đã quy định việc xử lý nghiêm khắc hơn so với pháp luật hiện hành, cụ thể: người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND thì sẽ bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử; người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ thì không được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến; người có nghĩa vụ kê khai khác thì bị xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên, nếu đã được quy hoạch vào chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch.
Tăng cường trách nhiệm của cơ quan thanh tra, kiểm toán trong phát hiện tham nhũng
Liên quan đến quy định về phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, Chủ nhiệm Lê Thị Nga cho biết, có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị quy định cụ thể chỉ xử lý trường hợp Trưởng đoàn thanh tra, kiểm toán, thành viên đoàn thanh tra, kiểm toán hoặc người ra quyết định thanh tra, kiểm toán phải chịu trách nhiệm nếu cố tình bao che vi phạm trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; ý kiến khác đề nghị bổ sung cụm từ “và cùng một hồ sơ, tài liệu đã được thanh tra, kiểm toán nếu phát hiện được sai phạm nhưng che giấu, bỏ qua” vào sau cụm từ “về cùng một nội dung” tại khoản 1 Điều 64 của Dự thảo Luật.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, đây là quy định mới của Dự thảo Luật nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của cơ quan thanh tra, KTNN trong phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán.
Đồng thời, về nguyên tắc, để xem xét xử lý kỷ luật, xử lý hình sự một người phải trên cơ sở xác định lỗi của người đó và tính chất, mức độ của hành vi vi phạm. Do đó, Dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng, nếu sau khi kết thúc thanh tra, kiểm toán mà cơ quan có thẩm quyền khác phát hiện có vụ việc tham nhũng xảy ra tại cơ quan, tổ chức, đơn vị đã được tiến hành thanh tra, kiểm toán về cùng một nội dung thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Trưởng đoàn thanh tra, kiểm toán, thành viên đoàn thanh tra, kiểm toán và cá nhân khác có liên quan đã tiến hành thanh tra, kiểm tra trước đó nếu có lỗi, phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 64 quy định về việc xử lý trách nhiệm đối với trường hợp trong “cùng một nội dung” nhưng thanh tra, kiểm toán không phát hiện sai phạm mà các cơ quan có thẩm quyền khác lại phát hiện sai phạm là đã đầy đủ, vì nếu có hồ sơ, tài liệu khác mới phát sinh mà người có thẩm quyền thanh tra, kiểm toán không biết hoặc không thuộc phạm vi thanh tra, kiểm toán thì họ không có lỗi.
Về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, để khắc phục những hạn chế của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành; đồng thời cũng phải phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay, bảo đảm tính khả thi thì việc sửa đổi mô hình Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập cần theo hướng tăng cường một bước tính tập trung. Các phương án về Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập trình Quốc hội đều đã được đánh giá tác động, cân nhắc về tính khả thi trên cơ sở tính toán cụ thể về số đối tượng chịu sự kiểm soát của mỗi cơ quan. Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Tổng Thư ký Quốc hội gửi phiếu thăm dò ý kiến đại biểu Quốc hội. Kết quả: có 330/456 ý kiến đại biểu, chiếm 68,04% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành với quy định của Dự thảo Luật; 83/456 ý kiến đại biểu, chiếm 17,11% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành với quy định: giao cho Thanh tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên công tác tại tất cả các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương; Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh, đơn vị phụ trách tổ chức, cán bộ tại cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương nơi không có cơ quan thanh tra kiểm soát tài sản, thu nhập của các đối tượng còn lại.
Do đó, tiếp thu đa số ý kiến đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật quy định: Giao cho Thanh tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp Nhà nước; Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của những người kê khai còn lại công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp Nhà nước; các cơ quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức mình.
Về người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập (Điều 34), có ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng, việc mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai đến tất cả cán bộ, công chức là không khả thi. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai đến tất cả cán bộ, công chức nhằm mục đích chủ yếu là tạo cơ sở dữ liệu để so sánh, đối chiếu khi họ được bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn hoặc khi tài sản, thu nhập có biến động trong năm từ 300 triệu đồng trở lên…, những đối tượng này không phải kê khai hàng năm. Tuy Dự thảo Luật quy định mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai lần đầu nhưng đã thu hẹp diện đối tượng phải kê khai thường xuyên, kê khai hàng năm là phù hợp với năng lực của Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập và bảo đảm tính khả thi. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định của Dự thảo Luật. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập gồm: Cán bộ, công chức; Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Cũng trong phiên họp sáng nay, với đa số phiếu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung các Luật có quy định liên quan đến quy hoạch và Luật Công an nhân dân (sửa đổi).
Đ. KHOA