Theo đó, để quản lý, đôn đốc thu nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên, khoáng sản và thuế tài nguyên, Tổng cục Thuế yêu cầu các cục thuế chủ động phối hợp với các ngành, tham mưu cấp có thẩm quyền thu thập dữ liệu, chia sẻ thông tin để tính tiền cấp quyền khai thác.
Đồng thời, xử lý các tổ chức, cá nhân không chấp hành nghĩa vụ thuế dẫn đến nợ thuế tài nguyên, tiền cấp quyền khai thác; liên hệ, phối hợp, trao đổi thông tin để xác định sản lượng tài nguyên, khoáng sản thực tế đã khai thác với sản lượng đã kê khai thuế và sản lượng tài nguyên được cấp phép khai thác, từ đó xác định nguyên nhân để tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế về thuế tài nguyên.
Cũng theo Tổng cục Thuế, căn cứ Luật Khoáng sản và các văn bản pháp luật hướng dẫn Luật, số liệu từ các trạm cân lắp đặt tại các điểm vận chuyển khoáng sản nguyên khai ra khỏi khu vực khai thác khoáng sản là một trong những tư liệu, thông tin... làm cơ sở để cơ quan tài nguyên và môi trường xác định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế, đồng thời hình ảnh lưu trữ thông tin từ camera giám sát do chủ mỏ lắp đặt cũng là nguồn thông tin hữu ích cho công tác thống kê, giám sát, quản lý sản lượng khoáng sản khai thác thực tế của cơ quan tài nguyên và môi trường.
Tổng cục Thuế đề nghị cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo UBND tỉnh, thành phố chỉ đạo sở tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, địa phương rà soát, trao đổi thông tin xác định sản lượng tài nguyên thực tế doanh nghiệp khai thác làm cơ sở đối chiếu với sản lượng tài nguyên tính thuế mà doanh nghiệp đã kê khai thuế và sản lượng tài nguyên được cấp phép khai thác để xử lý theo quy định.
Cùng với đó, các cục thuế cũng cần tăng cường phối hợp với các cơ quan, ban, ngành địa phương nâng cao công tác quản lý thuế đối với lĩnh vực tài nguyên, khoáng sản./.