
Thưa ông, tỷ lệ thực hiện kiến nghị kiểm toán luôn được xem là “thước đo” quan trọng phản ánh hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN. Trong những năm gần đây, tỷ lệ này luôn gia tăng và hiện đạt gần 85%. Ông nhìn nhận, đánh giá như thế nào về kết quả trên?
Theo các số liệu báo cáo của KTNN, hiện tỷ lệ thực hiện kiến nghị kiểm toán của toàn Ngành đạt gần 85% cho năm liền kề năm kiểm toán và tiếp tục thực hiện trong các năm tiếp theo đối với số kiến nghị còn lại, với tỷ lệ khoảng 15-20%. Riêng các kiến nghị liên quan đến tài chính hiện có tỷ lệ thực hiện xấp xỉ 90% - là những kết quả tích cực rất đáng ghi nhận.

Điều đó cho thấy hiệu lực và uy tín của KTNN ngày càng được khẳng định; các kiến nghị đã thực sự đi vào cuộc sống, không dừng lại ở những con số hay báo cáo. Đặc biệt, việc các kiến nghị liên quan đến tài chính đạt mức thực hiện xấp xỉ 90% càng minh chứng rõ hơn về vai trò của KTNN trong việc bảo vệ kỷ cương ngân sách, hạn chế thất thoát và lãng phí. Đây cũng là một trong những “hàng rào” quan trọng để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, vì tiền ngân sách chính là “huyết mạch” của nền kinh tế quốc gia.
Tuy nhiên, các kết quả trên cũng đồng thời gửi đi một thông điệp: Vẫn còn khoảng 10-15% kiến nghị chậm hoặc chưa được thực hiện. Điều đó đặt ra yêu cầu về việc cần có cơ chế ràng buộc mạnh mẽ hơn, cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan, đơn vị được kiểm toán. Nói cách khác, kết quả tích cực là rất đáng tự hào, nhưng vẫn còn dư địa để cải thiện, nhằm đạt đến một hệ thống quản trị tài chính công minh bạch và hiệu quả hơn.
Như vừa chia sẻ, xin ông có thể nói rõ hơn về trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán trong trường hợp chậm thực hiện kiến nghị kiểm toán?
Theo quy định tại Luật KTNN, đơn vị được kiểm toán có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN về quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Như vậy, khi KTNN đã phát hành và công khai báo cáo kiểm toán thì việc chậm trễ hoặc không thực hiện của đơn vị được kiểm toán đồng nghĩa với việc không chấp hành kỷ cương tài chính và pháp luật của Nhà nước.
Đặc biệt, với những kiến nghị liên quan đến sửa đổi cơ chế, chính sách, mức độ trách nhiệm càng cao hơn. Bởi nếu không kịp thời khắc phục, những “lỗ hổng” này sẽ tiếp tục tạo ra thất thoát, lãng phí và thậm chí là nguy cơ tham nhũng. Ở đây, trách nhiệm không chỉ của cơ quan được kiểm toán, mà còn gắn với người đứng đầu - những người có thẩm quyền ra quyết định và tổ chức thực hiện.
Nói cách khác, việc chậm trễ hay không thực hiện kiến nghị kiểm toán cần được nhìn nhận như một hành vi thiếu trách nhiệm giải trình. Cần có cơ chế giám sát và chế tài đủ mạnh để buộc các đơn vị phải thực hiện nghiêm túc; nếu không, hiệu lực của hoạt động kiểm toán sẽ bị giảm sút và niềm tin của xã hội cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Vậy, việc chậm thực hiện kiến nghị kiểm toán sẽ mang lại những tác động tiêu cực như thế nào, thưa ông?
Tôi cho rằng, việc chậm trễ hoặc không thực hiện kiến nghị kiểm toán dẫn tới nhiều hệ lụy tiêu cực. Thứ nhất, ngân sách nhà nước tiếp tục bị thất thoát, lãng phí; những sai phạm tài chính không được xử lý kịp thời sẽ gây thiệt hại trực tiếp cho quốc gia. Thứ hai, làm suy giảm kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách, tạo tiền lệ xấu cho những đơn vị khác, thậm chí khuyến khích hành vi né tránh trách nhiệm. Thứ ba, sự chậm trễ còn ảnh hưởng đến niềm tin của xã hội đối với các cơ quan công quyền, làm giảm uy tín của hệ thống quản trị quốc gia.
Ngược lại, nếu các kiến nghị kiểm toán được thực hiện nghiêm túc, lợi ích mang lại là rất rõ ràng. Đó là: Ngân sách nhà nước được bảo toàn, nguồn lực công được sử dụng minh bạch và hiệu quả hơn. Việc thực hiện kiến nghị cũng sẽ giúp bịt kín những kẽ hở về cơ chế, chính sách, từ đó ngăn chặn nguy cơ tham nhũng, tiêu cực ngay từ gốc. Đồng thời, việc này cũng góp phần nâng cao tính giải trình và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị được kiểm toán, qua đó củng cố niềm tin của người dân và cộng đồng doanh nghiệp vào sự liêm chính của bộ máy nhà nước.
Với những tác động như trên, để tiếp tục nâng cao tỷ lệ thực hiện kiến nghị kiểm toán trong thời gian tới, theo ông, cần có những giải pháp như thế nào?
Để nâng cao hơn nữa tỷ lệ thực hiện kiến nghị kiểm toán, theo tôi, cần đồng bộ nhiều giải pháp.
Thứ nhất, phải nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan, đơn vị được kiểm toán, gắn với trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu. Nếu để chậm trễ hoặc không thực hiện, cần có cơ chế xem xét trách nhiệm rõ ràng.
Thứ hai, cần tăng cường cơ chế giám sát và chế tài. Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp phải coi việc thực hiện kiến nghị kiểm toán là một nội dung giám sát thường xuyên. Những đơn vị không chấp hành cần được công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời có biện pháp xử lý đủ sức răn đe.
Thứ ba, đối với những kiến nghị liên quan đến sửa đổi cơ chế, chính sách - vốn thường phức tạp và cần sự phối hợp liên ngành - thì Chính phủ và các Bộ, ngành phải đặt lộ trình xử lý rõ ràng, thậm chí đưa vào chương trình xây dựng pháp luật hằng năm để bảo đảm kiến nghị không rơi vào tình trạng “tồn đọng lâu năm”.
Về phía KTNN, ngành Kiểm toán cần phải làm gì để tiếp tục nâng cao tỷ lệ thực hiện kiến nghị kiểm toán, thưa ông?
Về phía KTNN, để tiếp tục nâng cao tỷ lệ thực hiện kiến nghị kiểm toán, tôi cho rằng cần tập trung vào một số trọng tâm.
Một là, nâng cao hơn nữa chất lượng kiến nghị kiểm toán. Kiến nghị phải rõ ràng, có căn cứ pháp lý thuyết phục, đồng thời khả thi trong thực tiễn. Khi kiến nghị “trúng” và “đúng”, thì khả năng thực hiện sẽ cao hơn rất nhiều.
Hai là, KTNN cần tăng cường theo dõi, đôn đốc sát sao tiến độ thực hiện kiến nghị, thiết lập cơ chế cảnh báo sớm với những đơn vị có dấu hiệu chậm trễ.
Ba là, ngành Kiểm toán cần tăng cường phối hợp với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan thanh tra, kiểm tra để tạo sức mạnh tổng hợp. Nhiều kiến nghị liên quan đến sửa đổi cơ chế, chính sách, nếu có sự vào cuộc của các cơ quan lập pháp và hành pháp ngay từ đầu, sẽ được giải quyết nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Bốn là, cần đẩy mạnh công tác truyền thông. Việc công khai kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán không chỉ giúp người dân, doanh nghiệp hiểu rõ lợi ích của từng đồng ngân sách được bảo vệ, mà còn tạo áp lực dư luận buộc các đơn vị được kiểm toán phải thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, truyền thông mạnh mẽ cũng khẳng định vai trò, uy tín của KTNN trong việc thực hiện sứ mệnh bảo vệ nền tài chính quốc gia minh bạch, bền vững.
Cuối cùng, KTNN cũng phải tiếp tục đổi mới phương pháp, hoạt động kiểm toán; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn… để nâng cao năng lực phát hiện sai phạm, từ đó đưa ra những kiến nghị có giá trị cao, có sức nặng và sức thuyết phục lớn hơn.
Xin trân trọng cảm ơn ông!./.