
Tình trạng phát triển "nóng" và rủi ro với “vua” trái cây Việt
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), năm 2024, xuất khẩu sầu riêng đạt khoảng 3,2 tỷ USD, chiếm gần một nửa kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước. Đây là con số kỷ lục, mở ra giai đoạn tăng trưởng mới của ngành hàng giá trị cao này, trong bối cảnh diện tích lớn sầu riêng đã chính thức cho trái.
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường - NNMT), tổng diện tích sầu riêng trên cả nước hiện khoảng 155.000 ha, tổng sản lượng ước đạt 720.000 tấn.
Với năng suất bình quân vườn sầu riêng kinh doanh khoảng 17 tấn/ha/năm, nhiều vườn đạt 25-30 tấn/ha; trong tình hình thị trường tiêu thụ thuận lợi, giá bán ở mức cao nhiều năm liền như hiện nay, cây sầu riêng đã và đang cho thu nhập và hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với các cây trồng khác.
Tuy nhiên, điều này cũng gây ra hiện tượng phát triển “nóng” về diện tích, nguy cơ dẫn đến hậu quả như cung vượt cầu, ảnh hưởng năng suất, chất lượng sầu riêng, từ đó tác động lớn đến hoạt động xuất khẩu của sản phẩm trái cây "vua".
Thực trạng trên đã được chính Bộ trưởng Bộ NNMT Đỗ Đức Duy cảnh báo, khi ông chỉ ra những hệ lụy từ phát triển "nóng", đó là sự gia tăng khoảng cách giữa tốc độ mở rộng sản xuất và khả năng tổ chức chuỗi cung ứng; giữa yêu cầu kiểm soát chất lượng của thị trường nhập khẩu và năng lực đáp ứng còn hạn chế trong nước.
“Nếu không sớm tái cơ cấu, ngành hàng sầu riêng có nguy cơ đánh mất niềm tin từ khách hàng và làm tổn hại đến uy tín nông sản Việt Nam” - Bộ trưởng nhấn mạnh.
Được ví như “thủ phủ” của sầu riêng của cả nước, tỉnh Đắk Lắk hiện có 38.800 ha trồng sầu riêng, chiếm 21,7% diện tích sầu riêng của cả nước. Tốc độ tăng sản lượng sầu riêng khoảng 126 nghìn tấn/năm. Sản lượng sầu riêng năm 2024 đạt trên 1,5 triệu tấn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, lãnh đạo Sở NNMT tỉnh Đắk Lắk cho rằng, hiện nội tại của ngành sầu riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể là tỷ lệ vùng trồng và cơ sở đóng gói được cấp mã số xuất khẩu còn thấp; ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất còn hạn chế; liên kết chuỗi giá trị còn lỏng lẻo, cơ sở hạ tầng sản xuất chưa đồng bộ. Một số vi phạm về an toàn thực phẩm và gian lận trong sử dụng mã số vùng trồng đã ảnh hưởng đến thương hiệu sản phẩm…
Bên cạnh đó, tình trạng phụ thuộc vào thị trường, đặc biệt là thị trường Trung Quốc - thị trường tiêu thụ sầu riêng lớn nhất của Việt Nam đang đặt ra thách rất lớn đối với ngành hàng tỷ đô này. Những tháng đầu năm 2025 xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc ghi nhận mức sụt giảm nghiêm trọng, chỉ đạt khoảng 20% kế hoạch đề ra.
Hệ quả, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2025 chỉ đạt khoảng 130 triệu USD, trong khi cùng kỳ năm 2024, giá trị xuất khẩu sầu riêng đạt hơn 500 triệu USD.
Việc thị trường tiêu thụ lớn là Trung Quốc bị gián đoạn cũng ảnh hưởng lớn đến giá sầu riêng bán trong nước, nhất là vào tháng 5, nhiều vùng trồng sầu riêng trên cả nước bước vào vụ. Điều này khiến cho giá sầu riêng giảm sâu từ đầu năm đến nay. Giá thu mua sầu riêng Ri6 tại vườn hiện ở mức 30.000-60.000 đồng/kg, tùy loại. Trong khi đó, sầu riêng Thái cũng dao động 45.000-95.000 đồng/kg, tùy loại.
Một trong những nguyên nhân được xác định là do trước đó, Trung Quốc áp dụng biện pháp tăng cường kiểm tra dư lượng chất vàng ô và Cadimi trong sầu riêng xuất khẩu. Điều này kéo theo việc làm phức tạp thêm quá trình tiêu thụ sản phẩm, với nhiều thủ tục phát sinh và nguy cơ sản phẩm bị từ chối tiếp nhận gia tăng.
Trong khi đó, việc thiếu cơ sở pháp lý và quy trình kiểm dịch chưa thực sự rõ ràng, công tác quản lý nhà nước về chất lượng và an toàn thực phẩm còn chậm… khiến doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng gặp khó trong việc đáp ứng yêu cầu của thị trường.
“Chính ngạch gặp rào cản kiểm định nghiêm ngặt, nếu phát hiện nhiễm cadimi hoặc vàng ô, lô hàng phải tiêu hủy hoặc trả về. Còn tiểu ngạch thì chi phí quá cao, một container có thể tốn đến 1 tỷ đồng chi phí, trong khi giá trị hàng chưa tới gấp đôi” - Tổng Thư ký Vinafruit Đặng Phúc Nguyên cho biết.
Trước tình trạng này, đại diện một doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng ở Cần Thơ cho biết, do yêu cầu kiểm soát chặt chẽ từ thị trường Trung Quốc, doanh nghiệp đã tạm dừng thu mua sầu riêng từ nông dân do lo ngại không đảm bảo yêu cầu kiểm dịch. Nhiều vùng trồng chưa cập nhật kịp tiêu chuẩn mới, đặc biệt về dư lượng kim loại nặng và nguồn gốc phân bón.
Những việc cần làm ngay...
Trên cơ sở nhận diện các thách thức đặt ra với ngành hàng sầu riêng, cơ quan quản lý nhà nước và các chuyên gia cũng thẳng thắn chỉ ra những việc cần làm ngay, cũng như đề xuất giải pháp có tính chất chiến lược đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực này.
Trong đó đặc biệt lưu ý đến tình trạng phát triển “nóng” là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những rủi ro cho ngành hàng sầu riêng, tư lệnh ngành NNMT đề nghị các địa phương, doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng cần phân tích toàn diện nguyên nhân của tình trạng này, từ đó nhận diện rõ những nguy cơ tiềm ẩn trong quản lý chất lượng, vùng trồng và khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Đưa ra đề xuất nhằm giải quyết vấn đề này, ông Huỳnh Tấn Đạt - Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho rằng, trong thời gian tới, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp cả trước mắt và lâu dài. Trước mắt là hoàn thiện cơ sở pháp lý, kỹ thuật và quy trình kiểm soát toàn chuỗi sản xuất - xuất khẩu; nâng cao năng lực kiểm soát an toàn thực phẩm, tăng cường phòng thử nghiệm đạt chuẩn quốc tế, tổ chức đoàn công tác sang Trung Quốc để đàm phán kỹ thuật, mở rộng thị trường và thúc đẩy xúc tiến thương mại.
Ngăn tình trạng tăng trưởng “nóng”, cùng với việc nhanh chóng nâng cao năng lực kiểm nghiệm, kiểm dịch, và truy xuất tại các vùng trồng và cơ sở đóng gói… là khâu then chốt để đảm bảo trái sầu riêng Việt Nam giữ vững được thị phần trong các thị trường trọng điểm.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy
“Hiện Bộ NNMT đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư hướng dẫn quản lý mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói. Đây sẽ là văn bản nền tảng điều chỉnh toàn bộ quá trình sản xuất - sơ chế - kiểm soát kỹ thuật” - ông Đạt thông tin.
Đây được xem là bước đi cần thiết trong bối cảnh nhiều thị trường ngày càng siết chặt tiêu chuẩn nhập khẩu, buộc nông sản Việt phải nâng chuẩn nếu muốn duy trì tăng trưởng xuất khẩu bền vững.

Đây cũng chính là vấn đề được nhiều chuyên gia quan tâm, khi cho rằng những bất cập vừa qua, nhất là trong việc cấp mã số, kiểm dịch… khiến doanh nghiệp bị động.
Do đó, các Bộ, ngành, địa phương cần phối hợp rà soát xây dựng, ban hành các quy trình chuẩn về canh tác, thu hoạch, sản xuất sầu riêng rải vụ, thích ứng biến đổi khí hậu theo các vùng sản xuất trọng điểm; hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn liên quan quản lý giống, sản phẩm sầu riêng.
Ngoài ra, các địa phương cần xây dựng, triển khai chương trình khuyến nông trọng điểm cho cây sầu riêng về canh tác, thiết lập vùng trồng, liên kết chuỗi giá trị, truy xuất nguồn gốc đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, ưu tiên các nội dung như: ứng dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật canh tác, thu hái tiên tiến theo hướng thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, công nghệ số...
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Tri Kỷ - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Đắk Nông cho rằng, việc kiểm soát chất lượng vật tư đầu vào, đặc biệt là phân bón có tác động rất lớn đến chất lượng, độ an toàn của sầu riêng. Theo đó, cần đẩy mạnh sản xuất phân hữu cơ từ nguồn nguyên liệu nội địa như phế phụ phẩm nông nghiệp, để vừa thân thiện môi trường, vừa giảm chi phí cho người sản xuất.
Bên cạnh đó “chúng ta cần một cơ chế phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân thì mới có thể xử lý tận gốc các vấn đề hiện nay, từ đó tạo sự minh bạch trong chuỗi giá trị hàng hóa” - ông Kỷ lưu ý.
Khẳng định chế biến sâu là hướng đi bắt buộc nếu muốn nâng tầm giá trị và giảm rủi ro cho ngành sầu riêng, Thứ trưởng Bộ NNMT Phùng Đức Tiến cho biết, Bộ sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để xây dựng chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư cho chế biến sầu riêng đông lạnh và các sản phẩm phụ phẩm có giá trị.
Trong năm 2025-2026, Bộ NNMT sẽ ưu tiên: Lồng ghép hỗ trợ với các Chương trình mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững; đề xuất chính sách hỗ trợ tín dụng, kho lạnh, thiết bị sơ chế bảo quản; tăng cường xúc tiến thương mại quốc tế cho sản phẩm chế biến. Đồng thời, Bộ cũng sẽ làm việc với các tỉnh để quy hoạch vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, đảm bảo sản xuất theo chuỗi và ổn định lâu dài.
"Về lâu dài, cần cơ cấu lại ngành hàng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, xây dựng thương hiệu quốc gia; nâng cấp hệ thống logistics, tổ chức lại chuỗi liên kết và nâng cao năng lực thực thi của doanh nghiệp và địa phương" - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến lưu ý.