Bất cập của TKV và các đơn vị trong quản lý tài chính, tài sản, quản lý đầu tư

(BKTO) - Qua kiểm toán Báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước năm 2021 của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Kiểm toán nhà nước (KTNN) đã chỉ rõ những bất cập, thiếu sót của TKV và các đơn vị trong việc quản lý tài chính, kế toán; quản lý đầu tư, mua sắm tài sản, hàng hóa, sửa chữa tài sản cố định, thuê dịch vụ…

txx.jpg
Hoạt động khai thác than của 01 đơn vị thành viên của TKV. Ảnh: TTXVN

Quản lý tiền và tài sản thiếu chặt chẽ

Theo đánh giá của KTNN, nhìn chung, TKV và các đơn vị thành viên được kiểm toán hoạt động sản xuất kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; thực hiện quản lý tài chính và sản xuất kinh doanh theo Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế quản lý tài chính của TKV và các quy chế, quy trình, quy định nội bộ.

Tuy nhiên, KTNN đã có nhiều phát hiện quan trọng liên quan đến công tác quản lý nợ phải thu, phải trả. Kết quả kiểm toán cho thấy tình trạng quản lý nợ phải thu chưa chặt chẽ để phát sinh nợ đọng, nợ phải thu khó đòi phải trích lập dự phòng.

Theo Báo cáo của TKV, tại thời điểm 31/12/2021, tổng giá trị nợ phải thu khó đòi của TKV là 279.157 triệu đồng, trích dự phòng nợ phải thu 238.278 triệu đồng.

Cùng với đó là công tác đối chiếu nợ phải thu, phải trả chưa đầy đủ; vẫn còn trường hợp cho khách hàng nợ tiền hàng không đúng quy định theo hợp đồng, dư nợ vượt bảo lãnh thanh toán; chậm hoàn ứng theo quy định của đơn vị. Ngoài ra, còn trường hợp có hệ số thanh toán nợ ngắn hạn chưa đảm bảo...

Một số hợp đồng bán than tại Chi nhánh Công ty Kinh doanh than Hải Phòng của Công ty Cổ phần Kinh doanh than miền Bắc - Vinacomin chưa quy định hình thức bảo đảm thực hiện hợp đồng, chưa quy định điều khoản thưởng phạt.

Trong quản lý hàng tồn kho, còn có trường hợp chưa yêu cầu đơn vị giám định cung cấp các tài liệu thể hiện số lượng mẫu được lấy, sơ đồ lấy mẫu; chưa thực hiện kiểm định/hiệu chuẩn và đánh giá sai số của thiết bị đo mức tự động tại bể chứa xăng dầu; chưa thực hiện giám định độ ẩm lượng than sau khi nhập về kho, tiềm ẩn rủi ro chất lượng, độ ẩm hàng nhập kho...

Đánh giá về hiệu quả sử dụng tài sản cố định, KTNN nêu rõ, còn có các trường hợp công suất bình quân thực tế hoạt động của một số phân xưởng sàng tuyển thấp hơn so với công suất thiết kế; hiệu suất sử dụng một số đoàn tàu vận chuyển còn thấp, vòng quay chậm.

Liên quan đến chi phí xây dựng cơ bản dở dang, KTNN xác định, tại ngày 31/12/2021, một số khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang của các dự án dừng/không tiếp tục đầu tư từ nhiều năm trước đến nay chưa được xử lý dứt điểm.

Trong quản lý doanh thu, thu nhập, có đơn vị chưa thực hiện kê khai giá bán than theo quy định; một số khách hàng chưa có hồ sơ đủ điều kiện hộ kinh doanh thương mại.

Đối với việc quản lý chi phí, giá thành sản xuất kinh doanh, có đơn vị chưa ban hành đầy đủ các định mức kinh tế - kỹ thuật; chưa xây dựng, ban hành tỷ lệ hao hụt đối với công đoạn vận chuyển than theo từng cung độ vận chuyển, loại phương tiện, độ ẩm thực tế áp dụng; chưa cập nhật, xây dựng định mức tiêu hao nhiên liệu trên cơ sở định mức tiêu hao nhiên liệu của TKV; định mức năng suất thiết bị, tiêu hao nhiên liệu đối với xe ô tô và máy xúc phục vụ công nghệ chưa gắn với năng suất hoạt động (Tkm/h; tấn/h)...

Khi thực hiện quản lý các khoản phải nộp ngân sách nhà nước, có đơn vị chưa kê khai thuế Giá trị gia tăng đối với hàng biếu tặng; tính thiếu thuế Thu nhập cá nhân; chưa loại trừ một số khoản chi phí khi tính thuế Thu nhập doanh nghiệp; chưa giảm thu nhập tính thuế Thu nhập doanh nghiệp đối với khoản thu nhập từ cổ tức; trích Quỹ khoa học và Công nghệ vượt quy định.

Quản lý đầu tư thiếu chặt chẽ

Qua kiểm toán chọn mẫu một số gói thầu đầu tư, mua sắm tài sản, hàng hóa, sửa chữa tài sản cố định, thuê ngoài cung cấp dịch vụ tại các đơn vị được kiểm toán cho thấy, còn nhiều tồn tại trong công tác lập, phê duyệt kế hoạch mua sắm; lập, phê duyệt thiết kế và dự toán; lập hồ sơ mời thầu; lựa chọn nhà thầu, nhà cung cấp; ký kết và thực hiện hợp đồng; quản lý chất lượng, tiến độ, nghiệm thu thanh toán.

Trong số các khoản đầu tư tài chính dài hạn của Công ty mẹ TKV còn có một số khoản đầu tư tiềm ẩn rủi ro tài chính, chưa hiệu quả, như đầu tư vào Công ty cổ phần Cromit Cổ Định Thanh Hóa, Công ty liên doanh Alumina Campuchia - Việt Nam, Công ty TNHH Vinacomin Lào, Công ty cổ phần sắt Thạch Khê...

Đáng chú ý, KTNN đã có nhiều phát hiện quan trọng khi đánh giá việc tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ trong quản lý đầu tư xây dựng đối với 06 dự án được kiểm toán.

Cụ thể, trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương, dự án đầu tư, còn trường hợp phê duyệt dự án khi chưa được phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500. Một số dự án lập tổng mức đầu tư chưa chính xác hoặc thiếu cơ sở.

Việc tính toán hiệu quả đầu tư của Dự án Khai thác mỏ đồng Vi Kẽm (Bát Xát, Lào Cai) được phê duyệt tại Quyết định số 380/QĐ-VIMICO ngày 15/6/2016 của Hội đồng quản trị Tổng công ty chưa phù hợp, dẫn đến việc xác định hiệu quả đầu tư dự án chưa đảm bảo, phê duyệt dự án khi chưa được cơ quan chuyên môn tham gia ý kiến đối với thiết kế cơ sở và chưa được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Đối với Dự án Khai thác mỏ đồng Vi Kẽm, việc xác định quy mô, giải pháp thiết kế và công nghệ khai thác chưa phù hợp, dẫn đến sau 03 năm từ ngày phê duyệt đã phải điều chỉnh quy mô và giảm không đầu tư một số hạng mục công trình.

KTNN cũng nêu rõ, tại Dự án Khai thác hầm lò phần mở rộng Suối Lại (giai đoạn 1) đã thực hiện phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công 11 hạng mục đường lò để thực hiện thi công trước khi thiết kế kỹ thuật là chưa đúng quy định.

Việc khảo sát, phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công chưa phù hợp dẫn đến quá trình thi công phải điều chỉnh biện pháp thi công, tạm dừng thi công một số hạng mục thuộc Dự án Vi Kẽm hoặc phải điều chỉnh thiết kế chi tiết các hạng mục trong quá trình thực hiện tại Dự án Hệ thống vận chuyển xít thải ngược vào mỏ (Dự án Vận chuyển xít ngược).

KTNN cũng phát hiện một số gói thầu tính sai dự toán; hướng dẫn của TKV về điều chỉnh dự toán và thanh quyết toán chi phí ăn định lượng đối với nhân công xây dựng mỏ hầm lò chưa chi tiết, cụ thể…

Trong công tác lựa chọn nhà thầu và ký kết thực hiện hợp đồng của kế hoạch đấu thầu tại Dự án Vận chuyển xít ngược, nội dung thời gian lựa chọn nhà thầu một số gói thầu ghi trong Kế hoạch đấu thầu chưa phù hợp quy định.

Công tác chấm xét thầu còn chưa làm rõ một số hạn chế, tồn tại của hồ sơ dự thầu tại Gói thầu số 14, Gói thầu 16 Dự án Hệ thống băng tải cấp than cho Nhà máy tuyển Khe Chàm.

Liên quan đến công tác quản lý chất lượng, còn có trường hợp tư vấn giám sát không có chứng chỉ hành nghề; chưa kiểm tra, xem xét năng lực của nhân sự thay thế. Tại Dự án Suối Lại, hạng mục cuối cùng của Dự án hoàn thành đưa vào sử dụng từ tháng 02/2021 nhưng chủ đầu tư chưa báo cáo cơ quan chuyên môn về xây dựng để tổ chức kiểm tra công tác nghiệm thu công trình và không mua bảo hiểm công trình xây dựng cho các hạng mục công trình.

Đánh giá về tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của 06 dự án đầu tư được kiểm toán, KTNN kết luận, quá trình thực hiện đầu tư, tiến độ một số hạng mục, công trình thực hiện chậm so với yêu cầu của hợp đồng, dự án thực hiện chậm so với dự án đầu tư được phê duyệt. Cùng với đó là một số tồn tại trong chấp hành chính sách, chế độ dẫn đến phải giảm thanh, quyết toán chi phí đầu tư.

Cùng chuyên mục
Bất cập của TKV và các đơn vị trong quản lý tài chính, tài sản, quản lý đầu tư