“Cởi trói” điều kiện đầu tư kinh doanh để doanh nghiệp bứt phá

(BKTO) - Các quy định về đầu tư, kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến sự gia nhập thị trường và hoạt động của doanh nghiệp (DN). Do đó, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật theo hướng xóa bỏ các rào cản tiếp cận thị trường, bảo đảm môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định lâu dài là yêu cầu quan trọng để cộng đồng DN phát triển nhanh, bền vững.

dsc_58-2-.jpg
Quang cảnh Hội thảo “Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh”. Ảnh: D.T

Cắt giảm mạnh các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện

Chia sẻ tại Hội thảo “Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức ngày 24/9, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký VCCI cho biết, Luật Đầu tư năm 2020 đã tạo dựng cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt, Luật đã quy định rõ về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và xác lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc soạn thảo, ban hành, sửa đổi, bổ sung các ngành nghề này. Qua đó, quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư được đảm bảo, môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng, thuận lợi, phù hợp với nguyên tắc “người dân, DN được kinh doanh những gì pháp luật không cấm”.

Tuy nhiên, theo ông Tuấn, bối cảnh phát triển hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Những yêu cầu mới về đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, ứng phó với biến đổi khí hậu, cạnh tranh khu vực và toàn cầu, cũng như đòi hỏi từ các nhà đầu tư về một môi trường kinh doanh minh bạch, hiệu quả, ổn định và có khả năng dự báo cao…, đang đặt ra những thách thức lớn đối với hệ thống thể chế pháp luật hiện hành. Chính vì vậy, việc sửa đổi toàn diện Luật Đầu tư - thay thế bằng một đạo luật mới với tên gọi “Luật Đầu tư kinh doanh” - là một bước đi rất kịp thời, cần thiết và có ý nghĩa chiến lược.

Đánh giá về Dự thảo Luật, ông Tuấn cho rằng Dự thảo Luật đã thể hiện một tinh thần cải cách mạnh mẽ, với nhiều điểm mới quan trọng mà cộng đồng DN đánh giá cao. Chẳng hạn như: cắt giảm mạnh mẽ các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; đơn giản hóa thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư; cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập DN trước khi có dự án cụ thể, tạo sự bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; thay đổi cách tiếp cận trong ưu đãi đầu tư; đề xuất các phương án cải cách lớn đối với quản lý đầu tư ra nước ngoài...

Thông tin cụ thể về những điểm mới của Dự thảo Luật, đại diện cơ quan soạn thảo ông Tô Tuấn Đạt - Bộ Tài chính cho biết, Dự thảo Luật lược bỏ 17 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện không đáp ứng các tiêu chí, điều kiện theo quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư, có thể chuyển quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của người dân, DN như kinh doanh dịch vụ kế toán, kinh doanh dịch vụ làm thủ tục hải quan…

Liên quan đến thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, Dự thảo Luật đề xuất thu hẹp diện dự án phải thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư và chỉ thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; dự án ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh; dự án đầu tư trong các lĩnh vực quan trọng như cảng biển, sân bay…

Về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, Dự thảo Luật chỉ quy định thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và phân cấp toàn bộ dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội cho Thủ tướng Chính phủ để đẩy nhanh quá trình thực hiện thủ tục. Trong đó, đối với những dự án quan trọng, cần có cơ chế, chính sách đặc thù chưa được quy định tại Luật, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Đặc biệt, Dự thảo Luật mở rộng đối tượng áp dụng thủ tục đầu tư đặc biệt (cơ chế “luồng xanh”), theo đó cho phép tất cả dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung, khu thương mại tự do và khu chức năng trong khu kinh tế được quyền lựa chọn đăng ký đầu tư theo thủ tục đầu tư đặc biệt mà không hạn chế về ngành, lĩnh vực như quy định trước đây.

Theo cơ quan soạn thảo, cơ chế “luồng xanh” nhận được sự ủng hộ, đồng tình rất lớn của các nhà đầu tư và ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế, thúc đẩy nhanh việc thực hiện thủ tục đầu tư trong các khu này. Do vậy, cần tiếp tục mở rộng đối tượng được thực hiện cơ chế “luồng xanh” cho tất cả dự án trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung, khu thương mại tự do và khu chức năng trong khu kinh tế để tạo thuận lợi tối đa về thủ tục hành chính trong các khu này.

Đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài, Dự thảo Luật đề xuất bãi bỏ thủ tục đầu tư ra nước ngoài, chuyển sang phương thức quản lý ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước quản lý.

Giải thích cho đề xuất này, ông Tô Tuấn Đạt cho biết, việc chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài chưa thực sự hợp lý với bản chất của hoạt động đầu tư ra nước ngoài vì một số lý do.

Một là, nhà đầu tư sử dụng vốn tư nhân của mình để thực hiện đầu tư ra nước ngoài và tuân thủ các quy định pháp luật tại nước sở tại. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước Việt Nam lại phê duyệt nhiều nội dung của dự án về “hình thức, quy mô, địa điểm, tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn” là chưa thật sự hợp lý, ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của DN, nhà đầu tư; chưa phân định rõ nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và những nội dung thuộc thẩm quyền điều chỉnh của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.

Hai là, về bản chất, mục đích cuối cùng của nhà đầu tư là được chuyển tiền ra nước ngoài (giao dịch ngoại hối) để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài. Bên cạnh đó, các thủ tục đầu tư ra nước ngoài này khó ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư sau khi nhà đầu tư đã thực hiện xong việc chuyển tiền ra nước ngoài. Ngoài ra, việc tiếp tục duy trì cơ chế quản lý đầu tư ra nước ngoài như hiện tại không còn phù hợp vì làm cản trở, hạn chế việc nắm bắt cơ hội đầu tư ở nước ngoài của nhà đầu tư.

dsc_58-1-.jpg
Ông Tô Tuấn Đạt - Bộ Tài chính phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: D.T

Nhiều nội dung cần tiếp tục hoàn thiện

Bên cạnh những điểm mới tích cực, theo các chuyên gia, DN, Dự thảo Luật cũng cần tiếp tục hoàn thiện ở nhiều khía cạnh.

Ông Đậu Anh Tuấn góp ý, trước hết cần làm rõ ranh giới giữa thẩm quyền của các luật khác nhau, tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa Luật Đầu tư kinh doanh và các luật chuyên ngành như Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch… Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc “dự án bị treo”, “thẩm định đi thẩm định lại”, gây lãng phí thời gian, chi phí và cơ hội kinh doanh.

Thứ hai, về thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, theo phản ánh của DN, việc phải chấp thuận chủ trương đầu tư khiến quy trình trở nên phức tạp, kéo dài, trong khi các giai đoạn sau đó dự án đã chịu sự điều chỉnh bởi nhiều luật chuyên ngành. Do đó, cơ quan soạn thảo nên nghiên cứu, xem xét có nên tiếp tục duy trì thủ tục này hay không, và nếu có, thì phạm vi, đối tượng áp dụng cần được xác định thế nào cho hợp lý?

Thứ ba, các quy định về ưu đãi đầu tư cần được thiết kế gắn với hiệu quả thực tế, có điều kiện rõ ràng và dễ kiểm chứng. Tránh tình trạng ưu đãi theo phong trào, hoặc ưu đãi mà không đánh giá được tác động lan tỏa về công nghệ, việc làm, chuyển đổi chuỗi giá trị tại địa phương.

Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền đi đôi với phân trách nhiệm và tăng cường giám sát. “Việc giao thẩm quyền cho địa phương là cần thiết, nhưng phải đi kèm với năng lực thực thi và trách nhiệm giải trình, tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, gây khó khăn cho nhà đầu tư” - ông Tuấn nói.

Góp ý thêm cho Dự thảo Luật, luật sư Nguyễn Đức Mạnh - Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Bizlink cho biết, về quy định liên quan đến ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, tại Điều 7 Dự thảo Luật đề xuất giao thẩm quyền quyết định về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Danh mục) cho Chính phủ.

Theo vị luật sư, quy định như trên được hiểu là nhằm hướng đến tính linh hoạt trong điều tiết thị trường dựa trên tình hình thực tế. Tuy nhiên, vấn đề còn gây quan ngại đó là khi Danh mục được quy định tại nghị định, Chính phủ có thể ban hành hoặc sửa đổi nhiều nghị định khác nhau để bổ sung ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Điều này có nguy cơ làm Danh mục thay đổi thường xuyên và khó dự báo, khiến DN gặp khó khăn trong việc theo dõi, chuẩn bị kế hoạch kinh doanh, tăng chi phí tuân thủ và rủi ro pháp lý.

Ngược lại, khi Danh mục được quy định ngay trong luật, mọi sửa đổi, bổ sung phải do Quốc hội xem xét, trải qua quá trình giải trình, thẩm tra và đánh giá nghiêm ngặt. “Cách tiếp cận này bảo đảm tính minh bạch, hạn chế sự tùy tiện, củng cố niềm tin cho DN và phù hợp với mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, ổn định” - ông Mạnh nói.

Theo đó, luật sư đề xuất, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của DN, đồng thời duy trì môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, ổn định và có thể dự báo, cần tiếp tục quy định Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện ngay trong Luật thay vì giao Chính phủ quy định. Trường hợp Quốc hội vẫn quyết định giao Danh mục cho Chính phủ ban hành dưới hình thức nghị định, đề nghị quy định rõ thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung Danh mục chỉ thuộc Chính phủ và không phân cấp cho Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ nhằm hạn chế lạm quyền, bảo đảm tính thống nhất và minh bạch của hệ thống pháp luật./.

Cùng chuyên mục
“Cởi trói” điều kiện đầu tư kinh doanh để doanh nghiệp bứt phá