Đây là thông tin được Lãnh đạo KTNN Khu vực I cho biết tại Tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm kiểm toán đối với chuyên đề này diễn ra chiều 14/11.
Theo KTNN Khu vực I, qua kiểm toán, đơn vị đã phát hiện, chỉ ra những bất cập trong công tác lập, giao và thực hiện dự toán chi sự nghiệp KHCN; công tác đăng ký, đề xuất, thẩm định, xét chọn, tuyển chọn, phê duyệt nhiệm vụ KHCN; công tác công bố, lưu giữ kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN; việc chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; xử lý tài sản khi kết thúc đề tài, dự án, nhiệm vụ; việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản và các nguồn lực, việc cấp kinh phí, tài trợ, cho vay, hỗ trợ và bảo lãnh vốn vay thực hiện các nhiệm vụ KHCN tại Quỹ phát triển KHCN nghệ giai đoạn 2020-2022...
Trong thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, kiểm tra chọn mẫu một số nhiệm vụ KHCN, đoàn kiểm toán nhận thấy:
Thứ nhất, có đề tài khi kết thúc nhiệm vụ KHCN và đã được nghiệm thu, cơ quan chủ trì nhiệm vụ không lập báo cáo về tài sản gửi cơ quan quản lý nhiệm vụ KHCN theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 70/2018/NĐ-CP do theo báo cáo của đơn vị chưa xác định được chi phí tạo lập tài sản (chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc xác định này, đặc biệt đối với các sản phẩm được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau, là kết quả tổng hợp của các quá trình nghiên cứu lâu dài tạo ra.
Thứ hai, có đề tài đã nghiệm thu quá 12 tháng từ ngày nghiệm thu nhưng tổ chức chủ trì hoặc tổ chức được giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN chưa có báo cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Thông tư số 14/2014/TT-BKHCN ngày 11/6/2014 của Bộ KHCN về việc thu thập, đăng ký, lưu giữ và công bố thông tin về nhiệm vụ KHCN.
Thứ ba, có đề tài không có số lượng bài báo như đăng ký. Có đề tài chủ nhiệm nhiệm vụ KHCN và đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ KHCN: Chưa thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng về trách nhiệm của bên nhận đặt hàng và bên đặt hàng; chưa tổ chức tổng hợp, báo cáo đánh giá hiệu quả ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ do mình đề xuất hoặc đề xuất đặt hàng về Sở KHCN theo định kỳ hằng năm theo quy định.
Kết quả kiểm toán của đơn vị đã góp thêm, giúp củng cố những phát hiện của chuyên đề kiểm toán toàn Ngành về việc quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư cho KHCN tại các Bộ, ngành, địa phương.
Phó Kiểm toán trưởng KTNN Khu vực I Nguyễn Đức Sỹ
Đáng chú ý, đi liền với những đánh giá, kết luận kiểm toán, KTNN Khu vực I luôn đảm bảo thu thập đúng, đủ bằng chứng kiểm toán, tạo cơ sở vững chắc cho các kết luận kiểm toán.
Đơn cử, đối với các đánh giá liên quan đến bất cập trong công tác công bố, lưu giữ kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN; việc chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; xử lý tài sản khi kết thúc đề tài, dự án, nhiệm vụ, Đoàn kiểm toán của đơn vị đã thu thập các bằng chứng:
Báo cáo thực hiện giao nộp kết quả nghiên cứu của các đơn vị chủ trì cho Sở KHCN và Biên bản thanh lý hợp đồng, việc giao quyền sở hữu các tài sản hoặc phần tài sản là kết quả nhiệm vụ KHCN.
Báo cáo về việc thu thập, đăng ký, lưu giữ và công bố thông tin về nhiệm vụ KH&CN theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Thông tư số 14/2014/TT-BKHCN ngày 11/6/2014 của Bộ KHCN.
Báo cáo thực hiện các cam kết trong hợp đồng về trách nhiệm của bên nhận đặt hàng và bên đặt hàng; việc tổ chức tổng hợp, báo cáo đánh giá hiệu quả ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ do mình đề xuất hoặc đề xuất đặt hàng về Sở KHCN của chủ nhiệm đề tài nghiên cứu KHCN và đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ KHCN.
Sổ riêng để ghi chép, theo dõi số người tham khảo, sử dụng, tra cứu kết quả nhiệm vụ hằng năm để phục vụ việc khai thác, sử dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ, thống kê lượt tra cứu thông tin, tìm đọc tài liệu; Theo dõi thống kê được số lượt người truy cập các nhiệm vụ KHCN./.