Hướng tới chính sách xã hội toàn diện, bao trùm

(BKTO) - Việc triển khai các chính sách xã hội (CSXH) thời gian qua mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, CSXH ở nước ta vẫn chưa bao phủ toàn diện các đối tượng. Vì vậy, Nghị quyết chuyên đề về CSXH cho giai đoạn tới cần được xây dựng với một tầm nhìn thông thoáng, toàn diện và bao trùm hơn.

15.jpg
3 năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Ảnh sưu tầm

Bảo đảm cơ bản an sinh xã hội cho người dân

Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), 10 năm qua, thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề về CSXH giai đoạn 2012-2020 (Nghị quyết 15), nhiều CSXH được ban hành, triển khai quyết liệt, kịp thời. Nhờ đó, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt mục tiêu.

Theo báo cáo của Bộ LĐTBXH, trong tổng số 26 chỉ tiêu được đề ra tại Nghị quyết 15, có 5 chỉ tiêu vượt và hoàn thành trước thời hạn, 16 chỉ tiêu đạt mục tiêu vào năm 2020. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2020 có sự cải thiện trong Bảng xếp hạng của Liên hợp quốc (từ vị trí 128/187 năm 2011 lên vị trí 117 năm 2020).

Trong đó, giảm nghèo tiếp tục là điểm sáng được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015. Giai đoạn 2016-2020, mặc dù điều chỉnh nâng chuẩn nghèo nhưng tỷ lệ hộ nghèo cũng liên tục giảm bình quân 1-1,5%/năm, từ 7,9% năm 2016 xuống còn 2,23% năm 2021; thu nhập bình quân hộ nghèo năm 2020 bằng 2,3 lần so với năm 2015, bằng 3,5 lần năm 2010.

Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó có trên 1,2 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng lên hằng năm, đạt 3,25 triệu người (bao phủ 3,5% dân số) năm 2021. Một số địa phương tự cân đối được ngân sách đã chủ động tăng kinh phí cho trợ giúp xã hội, điều chỉnh nâng mức trợ cấp hằng tháng cao hơn mức chuẩn chung hoặc mở rộng diện thụ hưởng chính sách.

Đặc biệt, 3 năm qua, trong bối cảnh dịch Covid-19, Chính phủ đã ban hành 6 nghị quyết và quyết định nhằm trực tiếp hỗ trợ người lao động, người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Với 6 nghị quyết và quyết định chưa có tiền lệ này, chúng ta đã huy động tới 104.000 tỷ đồng để hỗ trợ hơn 68,67 triệu lượt người và trên 1,4 triệu người sử dụng lao động. Việc hỗ trợ này đã góp phần khôi phục lại sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt là duy trì chuỗi cung ứng lao động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp, góp phần ổn định và cải thiện từng bước đời sống của nhân dân và người lao động.

TS. Bùi Tôn Hiến - Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ LĐTBXH) - nhận định: Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15, hệ thống CSXH ở nước ta đã tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế; bảo đảm cơ bản quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị. Bà Gulmira Asanbaeva - quyền đại diện Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam - cũng nhìn nhận việc ban hành và triển khai Nghị quyết 15 đã đánh dấu một bước đột phá lớn, tạo tiền đề cho Việt Nam tiếp cận gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế và các thông lệ tốt nhất về an sinh xã hội.

Cần tầm nhìn thông thoáng, toàn diện trong xây dựng chính sách

Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ LĐTBXH và các chuyên gia, các CSXH ở nước ta vẫn thiếu tính bao trùm, chưa bao phủ hết đối tượng và chưa có sự kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ chức thực hiện. Đầu tư cho CSXH chưa tương xứng, trợ cấp xã hội còn thấp so với nhu cầu sống tối thiểu. Các trụ cột chính sách được thiết kế và triển khai thực hiện hầu hết theo ngành dọc, chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung cấp dịch vụ; thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích khu vực ngoài nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ công...

Theo Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung, lưới an sinh xã hội của chúng ta đang duy trì sự đảm bảo ở mức độ tối thiểu, thời gian tới sẽ phải tính toán tới việc duy trì mặt bằng ở mức độ phát triển cao hơn. Khi đó, các chính sách có thể đảm bảo cho người dân, người lao động phòng ngừa rủi ro, khắc phục rủi ro và chủ động ứng phó với rủi ro.

Để đảm bảo tính bền vững và toàn diện của CSXH, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ quan trọng năm 2023 của ngành LĐTBXH là phải tham mưu cho Trung ương ban hành Nghị quyết chuyên đề về CSXH với một tầm nhìn thông thoáng, toàn diện và bao trùm hơn đến năm 2035 và tầm nhìn đến năm 2045. Trên cơ sở đó, chúng ta thể chế bằng các luật, hệ thống chính sách, trọng tâm là cùng với Bộ luật Lao động, phải sửa Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Việc làm. Đi liền với đó là giải quyết một cách căn cơ những vấn đề liên quan đến hệ thống CSXH.

TS. Bùi Sĩ Lợi - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội - cho rằng: Trong giai đoạn tới, CSXH cần phải có sự đột phá toàn diện, trọng tâm là đột phá về quản lý nhà nước. Theo đó, Nhà nước quản lý thống nhất việc thực hiện các CSXH theo hướng chia sẻ giữa Nhà nước - xã hội - người dân và bảo đảm nguyên tắc an sinh, an dân và an cư. Những CSXH mang tính nòng cốt cần được đổi mới như tiền lương, chính sách cho lao động phi chính thức, giáo dục và y tế thiết yếu. Đồng thời, CSXH phải bảo đảm tính chủ động về nguồn lực thực hiện và xã hội hóa cao.

Từ kinh nghiệm quốc tế, bà Ingrid Christensen - Giám đốc Văn phòng ILO tại Việt Nam - khuyến nghị, Việt Nam cần giải quyết thách thức từ các nhóm chính sách bị bỏ sót, những nhóm người làm việc tự do… thuộc nhóm cấp thiết cần tham gia an sinh xã hội. Các chuyên gia cũng đề xuất, khi xây dựng hay triển khai các CSXH, Việt Nam cần có sự lồng ghép phù hợp với các chính sách công khác để đảm bảo an sinh xã hội cho người dân./.

Cùng chuyên mục
Hướng tới chính sách xã hội toàn diện, bao trùm