Nợ công được kiểm soát nhưng cần bảo đảm an toàn

(BKTO) - Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đánh giá, trong 3 năm 2021-2023, công tác huy động, trả nợ công, các chỉ tiêu an toàn nợ công, hạn mức vay và bảo lãnh Chính phủ, vay nợ chính quyền địa phương đều đảm bảo mục tiêu, chỉ tiêu. Tuy vậy, vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2024 đã tiệm cận mức trần. Vì vậy, Chính phủ cần phân tích kỹ và có giải pháp bảo đảm an toàn nợ công.

13.jpg
Nợ công được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Ảnh minh họa

Tỷ lệ nợ công/GDP giảm so với năm 2021

Tại báo cáo Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 do Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV cho thấy, trong 3 năm 2021-2023, công tác huy động, trả nợ công, các chỉ tiêu an toàn nợ công, hạn mức vay và bảo lãnh Chính phủ, vay nợ chính quyền địa phương đều thực hiện đảm bảo mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 (Nghị quyết 23).

Việc huy động vốn linh hoạt và đa dạng, đảm bảo trong tổng mức quyết định. Tổng mức vay của Chính phủ khoảng 1,317 triệu tỷ đồng (đạt 42,9% kế hoạch). Vay của Chính phủ chủ yếu huy động với kỳ hạn dài (kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ giai đoạn 2021-2023 từ 12,6-13,92 năm, đảm bảo mục tiêu 9-11 năm); lãi suất ưu đãi và tập trung vào vốn vay trong nước.

Tỷ lệ nợ công trên GDP hiện nay của Việt Nam vào khoảng 37%, trong khi mục tiêu mà Chính phủ đề ra là khoảng 60%. Do đó, vẫn còn dư địa tài chính lớn để Chính phủ Việt Nam thúc đẩy các chương trình chi tiêu cho hạ tầng và lĩnh vực xã hội, gồm trợ cấp thất nghiệp và cắt giảm thuế giá trị gia tăng.

Ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam

Việc trả nợ được thực hiện theo đúng cam kết, trong phạm vi dự toán Quốc hội quyết định. Nợ công được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Đến cuối năm 2023, nợ công khoảng 4 triệu tỷ đồng, khoảng 39-40% GDP, giảm từ mức 42,7% GDP năm 2021, nợ Chính phủ khoảng 3,7 triệu tỷ đồng, khoảng 36-37% GDP, giảm từ mức 38,7% GDP năm 2021. Đến cuối năm 2023, nợ trong nước chiếm 73% dư nợ Chính phủ, tăng từ mức 67% năm 2021.

Báo cáo cũng cho thấy, công tác quản lý nợ công cũng phát sinh một số khó khăn, hạn chế như: Quy mô thị trường trái phiếu chính phủ trong nước chưa phát triển, điều kiện vay ngày càng thắt chặt hơn trong khi áp lực huy động vốn vay cho đầu tư phát triển lớn. Việc huy động nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài ngày càng khó khăn, giải ngân đạt thấp so với dự toán; công tác quản lý nợ của chính quyền địa phương cần được tiếp tục củng cố.

Cần bảo đảm an toàn nợ công và hiệu quả sử dụng vốn vay

Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia và Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 đánh giá: Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong công tác chỉ đạo, điều hành công tác quản lý vay, trả nợ công. Trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn tới kinh tế trong nước, các chỉ tiêu Quốc hội đề ra tại Nghị quyết 23 đã được Chính phủ chủ động kiểm soát. Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm đều đạt các mục tiêu đề ra. Sau 3 năm triển khai, các mục tiêu cụ thể cơ bản đều đạt Nghị quyết số 23 của Quốc hội; các chỉ tiêu an toàn nợ từng năm giai đoạn 2021-2023 đảm bảo trong các mức trần và ngưỡng an toàn được Quốc hội phê duyệt.

Công tác quản lý nợ công được điều hành chủ động, chặt chẽ, thận trọng. Chính phủ chủ động ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành theo thẩm quyền và tích cực các biện pháp kiểm soát an toàn nợ công và các hạn mức nợ. Công tác huy động vốn đáp ứng nhu cầu chi của NSNN. Trong bối cảnh thu ngân sách vượt kế hoạch, giải ngân đầu tư công chậm hơn dự kiến, Chính phủ đã chủ động điều chỉnh nhu cầu vay, đảm bảo huy động đủ nguồn lực cho NSNN.

Chính phủ đã chú trọng việc đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và ngoài nước; phát hành trái phiếu chính phủ tập trung vào kỳ hạn dài. Trong đó, vay trong nước dự kiến khoảng 547.085 tỷ đồng, chủ yếu là phát hành trái phiếu chính phủ. Vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài khoảng 57.294 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng mức vay. Đảm bảo hạn mức bảo lãnh Chính phủ và hạn mức vay về cho vay lại vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài; kiểm soát chặt chẽ cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay trong phạm vi hạn mức bảo lãnh.

Tuy vậy, Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị Chính phủ lưu ý về một số vấn đề như: Vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu NSNN năm 2024 đã tiệm cận mức trần theo Nghị quyết của Quốc hội. Ủy ban đề nghị Chính phủ phân tích kỹ và có giải pháp điều hành cân đối NSNN chủ động, bảo đảm an toàn nợ công. Đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài, Ủy ban đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương xem xét nghiêm túc, đánh giá toàn diện về nguyên nhân bất cập, vướng mắc kéo dài, hiệu quả của các dự án cũng như tính hợp lý của phương án huy động vốn… để đề xuất giải pháp thiết thực, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay./.

Kết quả kiểm toán Báo cáo nợ công năm 2021 của KTNN cho thấy: Đến ngày 31/12/2021, các chỉ tiêu nợ công năm 2021 trong giới hạn cho phép của Quốc hội. Trong năm 2021, có 3 khoản vay ngân quỹ nhà nước của ngân quỹ trung ương đến hạn trả nợ nhưng phải gia hạn nợ 198.864 tỷ đồng; việc lập kế hoạch vay và báo cáo tình hình vay nợ của các địa phương chưa kịp thời). Kết quả kiểm toán tại các địa phương cho thấy: Tỉnh Hải Dương chưa báo cáo Bộ Tài chính về vay, nợ của chính quyền địa phương và lập, giao dự toán bội chi ngân sách địa phương để xác định vay bù đắp bội chi chưa phù hợp; tỉnh Nghệ An giao dự toán chi trả nợ vay chưa phù hợp; tỉnh Cà Mau thực hiện chi trả lãi vay chưa phù hợp.

Cùng chuyên mục
Nợ công được kiểm soát nhưng cần bảo đảm an toàn