Phân định rõ trách nhiệm trong quản lý tài nguyên nước

(BKTO) - Việt Nam là quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc nhưng lại được xếp vào nhóm quốc gia thiếu nước. Nghịch lý này bắt nguồn từ sự chồng chéo trong quản lý. Để khắc phục bất cập này, nhiều ý kiến cho rằng, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) phải phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong công tác quản lý.

14.jpg
Cần phân định rõ trách nhiệm giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý tài nguyên nước. Ảnh minh họa

Nhiều Bộ, ngành cùng quản lý… một dòng sông

Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước (TNN), Bộ Tài Nguyên và Môi trường (TNMT) Ngô Mạnh Hà cho hay, Việt Nam có 3.450 con sông, suối với tổng chiều dài từ 10km trở lên, đạt tổng lượng nước khoảng 7.936 tỷ m3. Với lượng TNN này, nếu xét theo bình quân đầu người, Việt Nam không phải là quốc gia thiếu nước. Tuy nhiên, nếu xét về sản lượng nước nội sinh (chỉ chiếm khoảng 40%, còn 60% xuất phát từ nước ngoài) thì Việt Nam đang là quốc gia thiếu nước khi chỉ đạt 4.421 m3/người/năm; thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của Đông Nam Á là 4.900 m3/người/năm.

Theo ông Hà, với sự ra đời của Luật TNN năm 1998, sửa đổi năm 2012, đến nay, về cơ bản, công tác quản lý, bảo vệ TNN đã có sự chuyển biến tích cực, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong khai thác, sử dụng nước. Tuy vậy, công tác quản lý TNN ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập. Nguyên nhân trước hết là do sự chồng chéo trong công tác quản lý. Đơn cử, một dòng sông có rất nhiều Bộ, ngành cùng quản lý; nhiều đạo luật có phạm vi điều chỉnh liên quan đến dòng sông.

Chẳng hạn, Bộ TNMT quản lý về nguồn nước; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), Bộ Công Thương quản lý khai thác các công trình hồ chứa, đập dâng, các trạm bơm, các công trình thủy lợi, công trình thủy điện; Bộ Giao thông vận tải quản lý về giao thông đường thủy trên dòng sông. Chưa kể, Luật TNN năm 1998 và năm 2012 còn thiếu khung pháp lý về an ninh nguồn nước. Ngoài ra, việc sử dụng nước không hiệu quả, chưa tính toán đầy đủ giá trị của TNN trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi đó, khâu thực thi pháp luật ở địa phương còn chưa nghiêm, nhiều tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng TNN chưa hợp lý và chưa đúng các quy định của pháp luật.

Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Quang Huân lưu ý, tổng lượng nước của Việt Nam nhiều nhưng có tới 81% dùng cho nông nghiệp và 11% là nuôi trồng. Như vậy, có tới 92% lượng nước dùng cho ngành nông nghiệp, chỉ có 3% dùng cho sinh hoạt và 5% dùng cho công nghiệp. “Số liệu trên cho thấy, nếu không tiến hành điều tra khảo sát tốt, không phân định mục đích sử dụng sẽ rất khó quản lý. Việc quản lý nguồn nước hiện nay cơ bản là Bộ TNMT, tuy nhiên, công tác này có sự liên quan tới nhiều Bộ khác như: NNPTNT, Công Thương. Nếu không có sự phối hợp tốt thì Bộ TNMT khó hoàn thành tốt nhiệm vụ này” - ông Huân khuyến nghị.

Thực tế cũng cho thấy, hiện cả nước có hơn 900 hệ thống công trình thủy lợi với khoảng 70.000 công trình gồm: 6.750 hồ chứa nước, gần 20.000 trạm bơm, gần 300.000km kênh mương và hàng chục nghìn km đê sông, đê biển. Việc quản lý nhà nước từ quy hoạch, điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng, bảo vệ phát triển thủy lợi chiếm một tỷ lệ rất lớn trong quản lý nguồn nước. Giới phân tích nhấn mạnh, nếu không làm rõ và phân định chức năng quản lý nhà nước sẽ làm giảm hiệu quả của công tác quản lý TNN do sự chồng chéo về nhiệm vụ.

Khắc phục tình trạng chồng chéo trong quản lý tài nguyên nước

Để đảm bảo an ninh nguồn nước, tiến tới khai thác, sử dụng và quản lý bền vững TNN, theo ông Ngô Mạnh Hà, vấn đề quan trọng phải xử lý triệt để trong Luật TNN (sửa đổi) lần này là việc phân định rõ trách nhiệm giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý TNN.

Theo đó, quan điểm xây dựng Luật sửa đổi là phải tích hợp nhiều Luật trong Bộ luật chung và trên nền tảng đó, xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung. Điều này không có nghĩa là Luật TNN (sửa đổi) sẽ phủ hết tất cả các luật khác, mà liên quan đến Bộ, ngành nào thì Luật phân công cụ thể trách nhiệm cho các Bộ, ngành đó thực hiện để tránh chồng chéo trong quản lý.

“Trong kết cấu của Luật lần này, chúng tôi xây dựng theo hướng tổng thể, tức là các Bộ, ngành đều phải chịu trách nhiệm liên quan đến an ninh nguồn nước, chứ không chỉ Bộ TNMT” - ông Hà chỉ rõ, đồng thời cho biết, trong lần sửa này, Bộ TNMT cũng đã đưa ra những quy định chung liên quan đến việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia có trách nhiệm trong việc bảo vệ nguồn TNN.

Để tiếp tục hoàn thiện Dự án Luật, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Tuấn Anh đề nghị Ban soạn thảo cần tiếp tục rà soát, quy định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Đơn cử, Dự thảo Luật TNN (sửa đổi) quy định Bộ TNMT chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý nhà nước đối với TNN, quản lý lưu vực sông, nguồn nước trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, quy định này chưa phù hợp với khoản 2, Điều 56, Luật Thủy lợi năm 2017 quy định trách nhiệm của Bộ NNPTNT là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thủy lợi. Theo đó, Dự thảo Luật cần làm rõ vấn đề này để tránh chồng chéo trong công tác quản lý TNN giữa Bộ NNPTNT và Bộ TNMT.

Nhiều ý kiến cũng đề nghị Luật TNN (sửa đổi) cần phân định rõ trách nhiệm quản lý TNN với quản lý công trình khai thác, sử dụng nước của các Bộ, ngành; bổ sung quy định về cơ chế phối hợp giữa Bộ TNMT với các Bộ có liên quan đến khai thác, sử dụng nước để quản lý thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo; trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ NNPTNT, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng cần cụ thể hơn; bổ sung trách nhiệm của Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng liên quan đến nguồn nước, an ninh nguồn nước xuyên biên giới, bảo vệ nguồn nước, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước.../.

Dự thảo Luật TNN (sửa đổi) được Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV và sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 6 vào tháng 10/2023.

Cùng chuyên mục
Phân định rõ trách nhiệm trong quản lý tài nguyên nước